Lâu
nay khi nhìn sự vật, chúng ta thấy sự vật là thấy theo cái tôi. Đó là tri kiến
mê lầm, trói buộc, không thấy đúng như thật của các pháp. Những hiểu biết lâu
nay ta thấy là những hiểu biết vay mượn, thấy theo sự huân tập của cái tôi sai
biệt nên không đúng như thật.
Lúc
mới sinh ra ta không có tri kiến gì; lớn lên cha mẹ dạy những kiến thức về đạo
đức gia đình hiếu thảo v.v... Đi học ở trường thì cô giáo, thầy giáo huân tập
thêm một số kiến thức về học đường. Lớn nữa ra sống ở xã hội thì học thêm những
kiến thức ngoài xã hội. Những cái đó là những cái ta học được sau này, vay mượn
của gia đình, trường học v.v... Chứ ngay lúc sinh ra ta không biết. Ngay cả
kiến thức về tôn giáo cũng vậy, mới huân tập sau này. Khi ta huân tập thì liền chấp
cái đó là của mình. Mà đã là của mình thì cái thấy của mình là trên hết, nên
khi có những tri kiến khác đối lại thì cãi. Hiểu như vậy thì bớt chấp vào những
kiến thức, tri kiến huân tập sau này.
Cũng
vậy, trước khi chúng ta khởi tâm động niệm thì không có tri kiến gì, khi mình
khởi thì mới có. Cho nên, nếu khéo quán để trả về tri kiến nguyên thuỷ ban đầu,
chưa có mang cái tôi. Đó là trả về tri kiến như thật.
Giống
như khi ta mang kiếng màu, mang màu hồng thì thấy cảnh vật màu hồng, mang màu
xanh thì thấy cảnh xanh theo, mang màu xám thì thấy nó xám. Khi gỡ kiếng, nhìn
bằng mắt chân thật thì thấy đúng sự vật như nó là nó. Cái nhìn đó mới thật sự
là trong sáng, không có màu. Nếu nó có màu thì nhìn đúng như màu của nó.
Thiền
sư Duy Tín có nói: “Trước ba mươi năm khi chưa học đạo thì thấy núi sông là
núi sông. Sau khi học đạo, hiểu đạo lý thì thấy núi sông chẳng phải là núi
sông. Sau ba mươi năm thấy núi sông trở lại là núi sông”. Nghĩa là trước
khi học đạo, chưa hiểu đạo lý thì thấy cái gì cũng thật, cảnh thật, người thật,
cho nên thấy núi sông thật là núi sông. Khi học đạo, hiểu rõ thì thấy tất cả
đều giả, là không thật, thấy núi sông không phải là núi sông vì không thật nữa.
Khi học đạo, tu hành, sáng tỏ, mở được mắt trí tuệ thì tâm mình hết lầm chấp.
Lúc đó nhìn trở lại cảnh vật, núi sông, thấy rõ đúng như thật của nó, núi sông
là núi sông. Không còn nói có nói không. Nếu còn nói có, nói không thì cũng còn
theo phương tiện. Nói không để phá cái lầm chấp có, để chỉ cái lý, cái tự tánh
của nó. Ngược lại, nói có để dừng chấp không. Khi chúng ta không còn chấp, trí
tuệ sáng thì thấy rõ bình hoa là bình hoa. Nhưng cái nhìn sáng suốt khác hơn
lúc chưa học đạo. Lúc trước ta cho nó là thật, phân biệt đẹp xấu, giờ thấy đúng
như nó là nó, bình hoa là bình hoa, núi sông là núi sông, không thêm gì!
Thiền
Sư Đức Sơn dạy chúng nói: “Này các ông, khoảng này không có một pháp
cho các ông giải hội, tự mình cũng chẳng hội Thiền. Ta cũng chẳng phải là thiện
tri thức, mọi việc đều không hiểu, chỉ biết đi ỉa, đi đái, ăn cơm, mặc áo thôi
còn có việc gì nữa”. Tức là Ngài muốn nhắc người, học Thiền cuối cùng là
trả về tri kiến như thật, không thêm vào những thứ hiểu biết vay mượn, trả về
bình thường như ăn cơm, mặc áo không thêm những hiểu biết tri kiến khác.
Khi
học, hiểu Phật Pháp, nếu biết ứng dụng thì tốt, nếu không thì có khi hiểu Phật
Pháp quá thành bệnh. Mới học đạo do chưa biết nên còn khiêm tốn, học nhiều quá
thấy mình hiểu nhiều thì thành bệnh. Chẳng hạn chúng ta đi chùa học đạo rất
lâu, hôm nay vào chùa vị Trụ trì lỡ sắp chúng ta đứng tuốt phía sau thì buồn
liền. Vậy là nhiều tri kiến, nhiều cái tôi quá! Phải biết đó chỉ là phương tiện
học đạo để gạn lọc nội tâm chính mình, không phải học đạo để thêm bệnh. Nên
Ngài nhắc phải thấy rõ đó là những thứ vay mượn, không phải của chính mình, hãy
trả về cho nó để nhận trí tuệ nguyên sơ của chính mình.
Nhà
thiền có cư sĩ Bàng Uẩn, dù còn sống ở ngoài đời nhưng ông ngộ đạo và có đời
sống rất tự tại. Khi chết, ông rất tự tại, làm chủ được sanh tử. Ông có câu
nói: “Chỉ cần bỏ hết các thứ hiện có, đừng đem vào những cái mình không có”.
Mỗi người thực hành được hai câu này một cách đầy đủ thì đời tu học coi như đã
xong.
Nếu
không khéo thì những cái trước khi đem vào nó không phải là của mình, nhưng đem
vào rồi thì chấp là của mình. Ví dụ Phật Pháp trước khi học là của ông thầy,
sau khi học là của mình. Chớ nên lầm như vậy.
Thiền
sư Vân Môn thượng đường đưa cây gậy lên bảo chúng “Cây gậy này phàm phu gọi
nó là thật, Nhị thừa phân tích nói nó là không, Duyên giác thì gọi nó là huyễn
có, Bồ-tát thì thấy đương thể tức không, Thiền gia thì thấy cậy gậy là cây gậy,
đi chỉ đi, ngồi chỉ ngồi không được đụng đến”. Tức là phàm phu chưa học gì
thì thấy cây gậy là thật. Nhị thừa thì phân tích cây gậy là vô thường, tuy có
nhưng một lúc thì hư, hoại thành không. Duyên giác thấy nó là do duyên hợp, tạm
có. Bồ-tát thì ngay đó thấy nó là tánh không, không phân tích. Nhưng nói vậy
vẫn còn trên lý thuyết, nhà Thiền thấy cây gậy chỉ là cây gậy, không thêm một
niệm gì nữa, không tri kiến gì, đi chỉ đi, ngồi chỉ ngồi không được đụng đến.
Đụng đến là có động niệm mà có động niệm thì sẽ bị ăn gậy. Nhà Thiền vượt qua
hết tất cả những tri kiến sai biệt, thấy đúng như thật, nó thế nào thì thấy nó
như vậy.
Có
vị tăng hỏi Thiền sư Pháp Nhãn: “Thế nào là giọt nước ở nguồn Tào?”.
Ngài Pháp Nhãn đáp: “Là giọt nước ở nguồn Tào”. Như vậy, giọt nước
nguồn Tào chỉ là giọt nước nguồn Tào, rất đơn giản. Nếu là chúng ta thì giải
thích thế này thế kia thành ra nó là văn tự, chữ nghĩa. Cuối cùng không thấy
được đâu là giọt nước nguồn Tào. Cũng như hỏi: “Thế nào là Phật?”.
Đúng nhà Thiền thì Phật là Phật, còn giải thích Phật thế này, thế kia thì cuối
cùng không có thấy Phật ở đâu. Hoặc người giải thích thế này, giải thích thế
kia v.v... rồi cãi nhau. Lúc đó, không thấy Phậât mà chỉ thấy chúng sanh. Đó là
Phật chữ nghĩa, Phật văn tự. Đúng ra Phật là Phật thôi!
Tinh
thần này đưa chúng ta trực tiếp giáp mặt với sự thật, không thêm những tri kiến
khác. Đó là trả về cái thấy như thật.
III. PHƯƠNG TIỆN TRỞ VỀ
III. PHƯƠNG TIỆN TRỞ VỀ
Tất
cả hiểu rồi thì tu tập để trở về cái thấy như thật chứ không phải để nói lý.
Phương tiện để trở về là sao? Từ lâu chúng ta lầm mê theo những tri kiến vay
mượn, giờ được nghe được đánh thức thì phải buông những cái thấy phân biệt theo
duyên bên ngoài để thấy đúng như thật. Thấy nghe thì vẫn thấy nghe nhưng thấy
nghe phải trả về trọn vẹn là thấy nghe, không xen lẫn các trần vào đó. Để tâm
vô trụ, thấy nghe nhưng không trụ vào cái trần nào. Lúc đó tâm sẽ trong sáng.
Trong
kinh Kim Cang, Phật bảo ngài Tu-bồ-đề: “Bồ-tát muốn phát tâm Vô thượng Chánh
đẳng Chánh giác thì Bồ-tát nên lìa tất cả tưởng mà phát tâm Vô thượng Chánh
đẳng Chánh giác, chẳng nên trụ sắc sanh tâm, chẳng nên trụ thinh, hương, vị,
xúc, pháp sanh tâm. Nên sanh tâm không có chỗ trụ”. Tức là phát tâm Vô
thượng Chánh đẳng Chánh giác thì không nên trụ chỗ nào, sanh tâm không có chỗ
trụ. Chính đó là tâm Vô thượng Bồ-đề. Tâm không trụ vào trần nào thì nó luôn
luôn sáng ngời. Nó thấy nhưng nó không trụ, nó vẫn là nó thì nó sáng ngời. Nếu
nó trụ vào đâu thì bị cái đó che.
Ví
dụ nó thấy bình hoa rồi trụ vào bình hoa thì bị bình hoa che, trộn lẫn với bình
hoa, không còn là chính nó, mất sự trong sáng. Còn thấy tất cả mà không trụ thì
vẫn còn nguyên vẹn là nó. Đó mới thật là trong sáng, trả về cái thấy nghe
nguyên vẹn. Chính phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác là tâm vô trụ. Còn
chúng ta trụ cái nào thì bị cái đó che. Thí dụ, đi ra chợ nghe ai đó nói tới
tên mình thì liền trụ ngay đó, hay nghe hát thì trụ ở đó. Mà trụ đó thì quên
mất hiện tại. Cho nên tâm không trụ, không bị cái gì che hết thì luôn sáng
ngời.
Chúng
ta khéo thực tập tâm vô trụ thì sống trở về thực tại sáng ngời, còn tâm trụ thì
liền quên mất thực tại, mất bản tâm của mình. Thiền sư Bá Trượng có bài kệ:
Linh quang riêng chiếu, vượt khỏi căn trần
Thể bày chân thường, chẳng kẹt văn tự
Tâm tánh không nhiễm, vốn tự viên thành
Chỉ lìa vọng duyên, tức như như Phật.
Thể bày chân thường, chẳng kẹt văn tự
Tâm tánh không nhiễm, vốn tự viên thành
Chỉ lìa vọng duyên, tức như như Phật.
“Linh
quang riêng chiếu, vượt khỏi căn trần”: Linh quang tức là ánh sáng linh
diệu nơi chính mình, nó “riêng chiếu” một mình, không trụ vào đâu
hết nên nó “vượt khỏi căn trần”.
“Thể
bày chân thường, chẳng kẹt văn tự”: Thể của nó luôn luôn bày cái chân thật
hiện hữu, lúc nào cũng sáng ngời không mắc kẹt trong văn tự, không dính vào chữ
nghĩa. Cái tâm chân thật, sáng suốt của chúng ta không thuộc vào bất kỳ chữ
nghĩa, kinh sách nào mà ở ngay nơi chính mình. Cho nên:
“Tâm
tánh không nhiễm, vốn tự viên thành”: Tâm tánh nếu nó không nhiễm với trần
bên ngoài thì tự nó tròn đủ, không thiếu.
“Chỉ
lìa vọng duyên, tức như như Phật”: Khéo lìa vọng duyên bên ngoài thì ngay
đó là Phật như như. Phật như như thì lúc nào cũng sáng suốt, không thêm bớt gì
nữa. Là tri kiến giải thoát tự tại. Thấy đúng như thật các pháp, chính đó là
tâm vô thượng Bồ-đề.
IV.
TÓM KẾT
Trong
kinh Lăng-nghiêm, Phật dạy: “Tánh giác tức minh vọng vi minh giác”. Tức
là cái giác ở trong tự tánh của mình tự nó vốn là sáng suốt nhưng người mê
không rõ, lại vọng sanh ra một cái sáng khác để soi sáng trở lại cái giác đó,
lập thêm một cái sáng ở trên cái giác, biến cái giác sẵn có đó thành cái giác
thứ hai để mình soi sáng. Thí dụ khi nghe nói mỗi người đều có Phật tánh, Phật
tánh vốn sáng suốt không có mê, liền cố suy tìm, quán sát để soi sáng trở lại
nó. Chúng ta nghĩ hiện giờ Phật tánh còn mê, nên phải soi cho nó sáng lên. Mà
soi sáng để cho nó sáng lên tức là hiện nó còn đang tối, mà nếu nó tối thì đâu
phải Phật tánh. Như vậy là biến Phật tánh thành đối tượng thứ hai để soi sáng,
tức là nó thành cái bóng rồi. Chúng ta soi nó để cho nó sáng lên, gọi là thêm
một cái sáng để mà soi sáng lại cái Phật tánh. Như vậy thành ra Phật tánh lu
mờ, chứ đúng là Phật tánh vốn tự sáng suốt, nhưng do chúng ta mê nên không nhận
ra.
Tu
là bỏ bớt những cái mê, những cái thêm vào đó. Thí dụ, như cái gương, thường
cái gương bị bụi đóng thì chúng ta phải chùi, mà chùi cái đó là chùi cái gì?
Người ta hay nói là chùi gương, lau gương. Là do lâu ngày dùng danh từ như vậy
thành ra quen, nói đúng là lau bụi chứ đâu phải lau gương. Nếu cái gương lau được
thì bị tối trở lại. Cho nên bản chất của cái gương là sáng, bụi chỉ đóng ở lớp
bên ngoài. Chúng ta lau đó là lau bụi, hết lớp bụi này thì gương nó tự sáng,
chứ không phải do lau mà nó thành sáng.
Nhận
định cho kỹ lại thì thấy rõ chúng ta dùng danh từ chưa chính xác. Thì đây cũng
vậy, Phật tánh là tánh giác, tánh giác là tự nó sáng rồi. Nhưng do chúng ta mê,
mê tức là những thứ vọng tưởng phiền não nhiều nên che. Nó che cho nên không
nhận ra được Phật tánh, giờ tu để bỏ bớt những cái này chỉ còn lại Phật tánh
sáng suốt. Đừng hiểu lầm, tưởng đâu là nó không sáng rồi cố soi sáng thì đã
biến nó thành đối tượng thứ hai cho chúng ta soi nó, vậy thì thêm cái gì để soi
lại nó nữa, thành ra có hai cái Phật tánh, một cái Phật tánh thì bị soi sáng,
một cái Phật tánh thì hay soi sáng lại nó, vậy thì cái nào là thật? Ở đây, khi
hiểu rồi thì biết tu là loại ra những cái không phải nó, những cái thêm vào nó,
thì tự nó sáng mà không lầm lẫn.
Có
một câu chuyện của Phật giáo Tây Tạng: Một vị tu sĩ tu bằng cách là thường đi nhiễu
vòng quanh tu viện Linh Thiêng. Tu viện này được truyền rất là linh thiêng, nếu
ai đi vòng quanh tu viện được bao nhiêu số vòng thì sẽ phát triển được tri kiến
của bậc Thánh. Vị tu sĩ này tu tập như vậy.
Một
hôm, đang đi quanh thì vị tăng bỗng gặp Thầy Viện chủ tu viện. Thấy vậy, Ngài
mới vỗ lưng tu sĩ này bảo: “Thật ra, đi vòng quanh một thánh địa như vậy thì
cũng tốt đó! Nhưng nếu muốn tốt hơn nữa thì thầy nên tu học về yếu tính của
Phật pháp (những điều trọng yếu trong Phật pháp)”. Vị tăng nghe xong liền
chuyển qua đọc, tụng thuộc lòng kinh điển. Không lâu lại gặp Thầy Viện chủ nữa,
Ngài lại vỗ lưng vị tu sĩ nói: “Đọc tụng kinh điển như vậy cũng hay quá đó
nhưng nếu hay hơn nữa thì nên tu học Phật pháp bao trùm rộng khắp”. Vị tăng
nghe vậy mới suy nghĩ, tu học Phật pháp mà bao trùm rộng khắp thì tu sao đây?
Thầy chuyển qua tu thiền định, luôn chuyên tâm thiền định ngồi không nhúc
nhích.
Một
hôm, đang ngồi thiền định trong một góc của tu viện, im lìm cố giữ tâm không
sanh nghĩ ngợi, thì Thầy Viện chủ này bỗng đến, bảo: “Con đang thiền định
đấy ư! Cũng rất hay đó! Nhưng tu tập cho đúng Phật pháp đích thực thì tốt hơn”.
Vị tăng không hiểu tu làm sao mà gọi là Phật pháp đích thực. Thiền định như vậy
mà Ngài còn bảo là phải tu Phật pháp đúng đích thực, thầy không biết làm sao
nữa, mà tâm cũng không còn chỗ nào để suy nghĩ bám lấy, nên mới thưa: “Dạ,
bạch thầy, con phải làm gì đây?”. Thầy Viện chủ bảo: “À! Thì con
hãy buông bỏ hết những gì mà con đang bám giữ, lúc đó con chính là con và cái
đơn giản này là bước khởi đầu mà cũng là mục đích cuối cùng”.
Nghĩa
là con hãy buông bỏ hết những gì con đang bám giữ, tức buông hết những cái vay
mượn. Khi những cái vay mượn đã buông ra hết, còn lại cái không thể buông ra
nữa, đó mới chính là con. Vì có đem vào cho nên buông ra được, còn đến lúc
không còn gì để buông nữa thì còn lại cái đó mới là chân thật chính mình. Và
cái đơn giản này là bước khởi đầu cũng là mục đích cuối cùng chứ không gì khác.
Vậy
là yếu chỉ để trở về nguồn chân hay là trở về tri kiến chân thật rất là đơn
giản, không thêm vào nhiều tri kiến, hay cái hiểu biết cao siêu gì khác mà chỉ
là bớt ra để không nhận những thứ đem vào đó là ta, không lầm những cái đó, còn
lại cái gì đó thì mới gọi là tri kiến chân thật của chính mình. Chỉ cần một
điểm này thôi, thì đủ cho tất cả mọi người thành tựu được tri kiến giải thoát,
không có vướng mắt, không kẹt vào những tri kiến vay mượn. Nó không có vướng
mắc cái gì thì đó gọi là tri kiến giải thoát.
Vậy,
vẫn thấy nghe biết hiểu nhưng đừng có dán nhãn hiệu cái “tôi” vào thì nó sáng
suốt không bóp méo sự thật. Mong tất cả luôn có tri kiến giải thoát để có cái
nhìn các pháp tự tại sáng suốt, gỡ hết những cặp kiếng màu đi để nhìn đúng sự
thật. Tức là hãy buông bỏ những gì đang bám giữ, ngay cả những lời đang nói đây
cũng buông, còn lại chính mình mới chân thật.
Giải thoát, giải thoát tri
kiến là hoa trái của tam vô lậu học. Thiền giả tích lũy và gieo trồng nhân tam
vô lậu học thì thu hoạch quả giải thoát, giải thoát tri kiến là tất nhiên. Giải
thoát, giải thoát tri kiến văn tự thì hai mà thật nghĩa chỉ là một. Thân ngũ
uẩn chỉ là một, mà giải thoát cho thân ngũ uẩn thì hai. Giải thoát những gì
ràng buộc phần sắc thân gọi là giải thoát. Giải thoát những gì phần phi sắc,
phần tâm thức gọi là giải thoát tri kiến.
Vậy, giải thoát là giải thoát những gì? Sao gọi là giải thoát?
Từ vua, quan, sĩ thứ của thời xưa, tổng thống của một quốc gia, giám đốc một công ty hay những tầng lớp công, nông, thương của thời nay đến cả những vị Khất sĩ, Thiền sư, những vị trụ trì trong chốn tu hành… với ý chí, với tham vọng riêng hay vì một trách nhiệm phải làm cho xã hội, cho gia đình đều luôn lo âu triền miên, không được nghĩ ngơi thong thả, không có tự do, tự chủ, tự tại trong sinh hoạt hàng ngày… Những ràng buộc đó đều gọi là không giải thoát.
Tất cả những việc làm, những sinh hoạt trong xã hội nói chung, mỗi con người ai cũng phải có bổn phận đóng góp, gánh vác, chia xẻ, phân công để làm ra tất cả những gì mà xã hội, con người cần. Điều đó phải được tán thán và tôn trọng. Tuy nhiên, khách quan mà nhận xét thì rõ ràng tất cả ngành nghề, địa vị, uy quyền cao thấp đều bận rộn với vai trò, với trách nhiệm, với phận sự của mình. Nhưng nhìn qua đạo nhãn của một Thiền giả thì tất cả thành phần người ấy đều ở trong vòng mà đạo Phật gọi là “triền phược”. Triền phược có nghĩa là không tự do, không tự tại, không tự chủ thì gọi là người chưa giải thoát hay không giải thoát!
Giáo lý đạo Phật, lập trường và tôn chỉ của đạo Phật thông qua kinh điển đức Phật dạy:
“Nếu ai muốn rõ biết
Ba đời mười phương Phật
Nên quán tánh pháp giới
Tất cả do tâm tạo”…
Qua lời Phật ý kinh ta thấy, con người và tâm con người là chủ nhân ông đối với vũ trụ vạn hữu. Không giải thoát cũng do con người mà giải thoát cũng do con người. Tri kiến giải thoát hay tri kiến không giải thoát đều do con người.
Vậy thế nào là tri kiến con người không giải thoát ?
Tất cả khổ tóm lược trong 11 món khổ đế đều có nguyên nhân và đều có thể dứt trừ giải khổ được mà không biế. Đó là tri kiến chưa giải thoát.
Vô minh phiền não, nhân của khổ đau trong tập đế đều có thể hóa giải dứt trừ được mà không biết. Đó là tri kiến chưa giải thoát.
Cảnh cũng như tâm con người vốn rỗng rang thanh tịnh Niết bàn, không nhơ xấu, không một chút tội lỗi khổ đau, mọi người ai cũng tự có mà con người không biết để thọ dụng, đó là chưa giải thoát.
Pháp dược vốn có khắp cùng, trị liệu, hóa giải bao nhiêu phiền não vô minh cũng không thiếu, đã được Phật đúc kết phương thang qua đạo đế, thế mà ít người biết sử dụng. Đó là tri kiến chưa giải thoát.
Trời là ai? Thần là ai? Thánh là ai? Diêm vương, quỷ sứ là ai? Không biết, không thấy! Đến cả Bà chúa xứ, Tứ phủ động đình xưa nay cũng không ai thấy, không ai biết. Vậy mà một số không ít trong loài người tín ngưỡng, tôn thờ, cúng bái, lạy lục, khấn nguyện, khẩn cầu … để mong sự phù trì giúp đỡ… Đó là tri kiến chưa giải thoát.
Tri kiến chưa giải thoát, nghĩa là sự hiểu biết của ai đó chưa thông, chưa đúng và chưa phù hợp chân lý, người đó không có tự do về mặt tinh thần, không có tự tại về hiểu biết, không có nhẹ nhàng phóng khoáng về trí não. Đạo Phật gọi là sống trong vòng triền phược. Do vậy, người nhận thức sự thật, đúng sự thật, đúng chân lý, rồi tự mình sửa đổi, tự mình buông bỏ, tự mình cắt đứt những gì ràng buộc về phần thân xác. Làm được việc đó đạo Phật gọi là người giải thoát.
Người nhận thức sự thật, đúng sự thật, rồi tự mình cắt đứt, tự mình buông bỏ, tự mình gột rửa những gì tà kiến sai lầm ở hiểu biết, ở trí não, ở tâm thức … làm được việc đó đạo Phật gọi là người giải thoát tri kiến.
Nói tóm lại, GIẢI THOÁT và GIẢI THOÁT TRI KIẾN là người giải thoát trọn vẹn những sai lầm của thân tâm, là người đạt đến Niết bàn đức và Bồ đề đức, người đó gọi là người đã thành Phật.
Do vậy, GIỚI, ĐỊNH, TUỆ, GIẢI THOÁT, GIẢI THOÁT TRI KIẾN, kinh điển Phật gọi “Ngũ Phần Pháp Thân” là vậy.
Vậy, giải thoát là giải thoát những gì? Sao gọi là giải thoát?
Từ vua, quan, sĩ thứ của thời xưa, tổng thống của một quốc gia, giám đốc một công ty hay những tầng lớp công, nông, thương của thời nay đến cả những vị Khất sĩ, Thiền sư, những vị trụ trì trong chốn tu hành… với ý chí, với tham vọng riêng hay vì một trách nhiệm phải làm cho xã hội, cho gia đình đều luôn lo âu triền miên, không được nghĩ ngơi thong thả, không có tự do, tự chủ, tự tại trong sinh hoạt hàng ngày… Những ràng buộc đó đều gọi là không giải thoát.
Tất cả những việc làm, những sinh hoạt trong xã hội nói chung, mỗi con người ai cũng phải có bổn phận đóng góp, gánh vác, chia xẻ, phân công để làm ra tất cả những gì mà xã hội, con người cần. Điều đó phải được tán thán và tôn trọng. Tuy nhiên, khách quan mà nhận xét thì rõ ràng tất cả ngành nghề, địa vị, uy quyền cao thấp đều bận rộn với vai trò, với trách nhiệm, với phận sự của mình. Nhưng nhìn qua đạo nhãn của một Thiền giả thì tất cả thành phần người ấy đều ở trong vòng mà đạo Phật gọi là “triền phược”. Triền phược có nghĩa là không tự do, không tự tại, không tự chủ thì gọi là người chưa giải thoát hay không giải thoát!
Giáo lý đạo Phật, lập trường và tôn chỉ của đạo Phật thông qua kinh điển đức Phật dạy:
“Nếu ai muốn rõ biết
Ba đời mười phương Phật
Nên quán tánh pháp giới
Tất cả do tâm tạo”…
Qua lời Phật ý kinh ta thấy, con người và tâm con người là chủ nhân ông đối với vũ trụ vạn hữu. Không giải thoát cũng do con người mà giải thoát cũng do con người. Tri kiến giải thoát hay tri kiến không giải thoát đều do con người.
Vậy thế nào là tri kiến con người không giải thoát ?
Tất cả khổ tóm lược trong 11 món khổ đế đều có nguyên nhân và đều có thể dứt trừ giải khổ được mà không biế. Đó là tri kiến chưa giải thoát.
Vô minh phiền não, nhân của khổ đau trong tập đế đều có thể hóa giải dứt trừ được mà không biết. Đó là tri kiến chưa giải thoát.
Cảnh cũng như tâm con người vốn rỗng rang thanh tịnh Niết bàn, không nhơ xấu, không một chút tội lỗi khổ đau, mọi người ai cũng tự có mà con người không biết để thọ dụng, đó là chưa giải thoát.
Pháp dược vốn có khắp cùng, trị liệu, hóa giải bao nhiêu phiền não vô minh cũng không thiếu, đã được Phật đúc kết phương thang qua đạo đế, thế mà ít người biết sử dụng. Đó là tri kiến chưa giải thoát.
Trời là ai? Thần là ai? Thánh là ai? Diêm vương, quỷ sứ là ai? Không biết, không thấy! Đến cả Bà chúa xứ, Tứ phủ động đình xưa nay cũng không ai thấy, không ai biết. Vậy mà một số không ít trong loài người tín ngưỡng, tôn thờ, cúng bái, lạy lục, khấn nguyện, khẩn cầu … để mong sự phù trì giúp đỡ… Đó là tri kiến chưa giải thoát.
Tri kiến chưa giải thoát, nghĩa là sự hiểu biết của ai đó chưa thông, chưa đúng và chưa phù hợp chân lý, người đó không có tự do về mặt tinh thần, không có tự tại về hiểu biết, không có nhẹ nhàng phóng khoáng về trí não. Đạo Phật gọi là sống trong vòng triền phược. Do vậy, người nhận thức sự thật, đúng sự thật, đúng chân lý, rồi tự mình sửa đổi, tự mình buông bỏ, tự mình cắt đứt những gì ràng buộc về phần thân xác. Làm được việc đó đạo Phật gọi là người giải thoát.
Người nhận thức sự thật, đúng sự thật, rồi tự mình cắt đứt, tự mình buông bỏ, tự mình gột rửa những gì tà kiến sai lầm ở hiểu biết, ở trí não, ở tâm thức … làm được việc đó đạo Phật gọi là người giải thoát tri kiến.
Nói tóm lại, GIẢI THOÁT và GIẢI THOÁT TRI KIẾN là người giải thoát trọn vẹn những sai lầm của thân tâm, là người đạt đến Niết bàn đức và Bồ đề đức, người đó gọi là người đã thành Phật.
Do vậy, GIỚI, ĐỊNH, TUỆ, GIẢI THOÁT, GIẢI THOÁT TRI KIẾN, kinh điển Phật gọi “Ngũ Phần Pháp Thân” là vậy.
Liễu
Liễu Đường, ngày 29/10/2011
(03-10-Tân
Mão)
Muốn có Tri kiến giải thoát phải thông
suốt những gì?
Muốn
có Tri kiến giải thoát phải thông suốt:
- Thứ
nhất, là phải thông suốt lý nhân quả thiện và ác.
-
Thứ hai, là phải thông suốt lý duyên hợp.
-
Thứ ba, là phải thông suốt lý các pháp vô thường, khổ, vô ngã.
-
Thứ tư, phải thông suốt Bát Chánh Đạo tức là tám lớp tu tập để được giải
thoát như:
Lớp
1 Chánh Kiến.
Lớp
2 Chánh Tư Duy.
Lớp
3 Chánh Ngữ.
Lớp
4 Chánh Nghiệp.
Lớp
5 Chánh Mạng.
Lớp
6 Chánh Tinh Tấn.
Lớp
7 Chánh Niệm.
Lớp
8 Chánh Định.
- Thứ
năm, phải thông suốt ba lậu như: dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu.
-
Thứ sáu, phải thông suốt Ngũ triền cái và Thất kiết sử.
-
Thứ bảy, phải thông suốt Năm hạ phần kiết sử và Năm thượng phần kiết sử.
- Thứ
tám, phải thông suốt Thập thiện và Thập ác.
-
Thứ chín, phải thông suốt bốn loại định: Định Sáng Suốt, Định Niệm Hơi Thở,
Định Vô Lậu và Định Chánh Niệm Tỉnh Giác.
- Thứ
mười, phải thông suốt Tứ Thánh Định.
- Thứ
mười một, phải thông suốt pháp Như lý tác ý và pháp Tác ý.
- Thứ
mười hai, phải thông suốt phóng tâm và phóng dật.
TRI-KIẾN
GIẢI-THOÁT
& GIẢI-THOÁT TRI-KIẾN GIẢI-THOÁT.
Lòng tri ân sâu thẳm vô bờ xin gởi về Bổn-sư và Pháp-sư tôn kính.
Một chỗ thấy biết vắng lặng, trong trẻo, bất động, vô ngại, vô biên hốt nhiên hiển hiện trước mắt người con Phật, đồng "một" thực tại phi thời gian, đã làm đảo lộn các chuẩn mực và mọi giá trị qui ước xưa cũ vốn có từ thuở lọt lòng của người ấy, đối với cuộc sống và cảnh giới này. Mặc dù các định chuẩn ấy, cũng là kinh nghiệm hiểu biết được tích lũy, phát triển và ăn sâu vào tận tim óc, máu thịt như một chùm giây mơ rễ má, mà một sát na trở về trước, tưởng chừng khó bề bứt tách ra khỏi óc não, nhưng chỉ sát na sau, nó vẫn phải bị loại trừ, bị tan biến, chí ít là ẩn hiện mờ nhạt trước một chỗ thấy biết tuyệt đối, tự tại, hiển nhiên, không đến không đi, nếu người ấy không động niệm phân biệt.
& GIẢI-THOÁT TRI-KIẾN GIẢI-THOÁT.
Lòng tri ân sâu thẳm vô bờ xin gởi về Bổn-sư và Pháp-sư tôn kính.
Một chỗ thấy biết vắng lặng, trong trẻo, bất động, vô ngại, vô biên hốt nhiên hiển hiện trước mắt người con Phật, đồng "một" thực tại phi thời gian, đã làm đảo lộn các chuẩn mực và mọi giá trị qui ước xưa cũ vốn có từ thuở lọt lòng của người ấy, đối với cuộc sống và cảnh giới này. Mặc dù các định chuẩn ấy, cũng là kinh nghiệm hiểu biết được tích lũy, phát triển và ăn sâu vào tận tim óc, máu thịt như một chùm giây mơ rễ má, mà một sát na trở về trước, tưởng chừng khó bề bứt tách ra khỏi óc não, nhưng chỉ sát na sau, nó vẫn phải bị loại trừ, bị tan biến, chí ít là ẩn hiện mờ nhạt trước một chỗ thấy biết tuyệt đối, tự tại, hiển nhiên, không đến không đi, nếu người ấy không động niệm phân biệt.
Giá
như miệng lưỡi có thể chứng minh được tự thể của khoảnh khắc thực tại ấy, thì ở
chỗ thẳm sâu nhất, chơn chất nhất mà tự đó có thể duyên quyện thành lời, ắc câu
nói đầu tiên mà người con Phật muốn thốt ra, muốn hét lên thật to cho mọi người
cùng nghe biết, không ngoài việc thể hiện lòng từ mẫn vô biên, hoà lẫn niềm tri
ân thẳm sâu tuông chảy vào cõi mênh mang, không gốc gát. Câu nói đó, hoặc là để
đánh động mọi người cùng trực nhận chỗ thấy biết siêu tuyệt kia, như một sự
chan hoà bình đẳng tuyệt đối, tự nhiên như nhiên, không còn gì là riêng biệt
chia cắt, hoặc là để đinh ninh trước mọi người một sự thật không gì thật
hơn, với lòng biết ơn trải khắp cả mười phương hư không, không sao nói hết,
rằng "đạo Phật là đạo giải thoát".
Phải!
"Ðạo Phật là đạo giải thoát"! Ðó là chân lý, một sự thật bất biến,
không gì có thể khác được đối với người con Phật, lúc này. Còn ai có tin hay
không tin chân lý ấy, là tuỳ duyên phước của từng mỗi chúng-sanh-tâm, hoặc là
đang tự đóng khung biệt lập trong phạm vi ý thức về những định chuẩn quán tính
xưa cũ, tôn vinh bản ngã và trói buộc với ngã-pháp sanh-tử hạn hẹp, hoặc là
đang hoà làm một cùng với con mắt đạo vốn dĩ luôn tự sẵn có cùng khắp, chưa
từng đóng mở, chưa từng đến đi, tạm ví như bầu trời thinh thinh rộng lớn, trong
trẻo trên cao. Ðiều ấy có nghĩa, tin hay không tin là tuỳ ở từng mỗi con mắt,
ngoài chỗ thấy biết trói buộc nghiệp thức nhơn quả này ra, còn khám phá được gì
nữa, khi người ấy có dám đi tìm cái sống miên viễn, vượt quá sanh tử bằng cách
can đảm và tỉnh táo buông tay để rơi tự do vào khoảng không vắng lặng, sâu thẳm
vô biên của tự tâm hay không.
Nhân
kỷ niệm đản sanh lần thứ 2552 của bậc Ðạo-sư Vô thượng, người đang tập tễnh
trên bước đường tu học này xin gởi gắm trong đây tất cả lòng hiếu kính và biết
ơn ba đời chư Phật, Bồ tát và các vị Thầy đã từ bi cứu vớt, dẫn dắt mảnh thức
tâm u mê, tăm tối, lầm lạc này đi vào chánh đạo. Bên cạnh đó, người viết mong
được chia xẻ với các bạn đạo thân thiết của mình, những Phật tử đang tu học tại
gia, một đề tài tuy xưa cũ, có lẽ không ai không biết, nhưng lại rất quan
trọng cho việc tự chứng giải thoát, đó là Giải-thoát Tri-kiến Giải-thoát.
I.
Tri kiến Giải thoát.
Ý
nghĩa của hai chữ giải thoát thì bao quát, rộng lớn vô cùng, nên xin không đi
vào chi tiết. Vả lại, với những người gần đất xa trời (như chúng tôi), thì đại
sự nhân duyên là việc vô cùng cấp thiết, như đang từng giờ, từng phút thúc giục
không được xao lảng việc thực hành pháp Phật, bởi cái quĩ thời gian "trăm
năm cõi này, một đời học đạo" của mình còn lại qúa ít ỏi, nên sự hiểu biết
đối với chữ nghĩa, có lẽ cũng chẳng thấy còn quan trọng mấy. Hơn nữa việc làm
giàu tri thức, bằng những khái niệm tương đối, là việc làm đi ngược lại với pháp
môn mà chúng tôi đang tu học, cũng như ngược lại nội dung chính yếu mà chúng
tôi mong muốn được trình bày trong bài viết ngắn này, là người tu Phật cần biết
vượt thoát khỏi Tri-kiến Giải-thoát, để tự thăng hoa. Bỡi vậy chỉ mong được
định nghĩa sơ lược.
Giải-thoát. Giải là cởi, thoát là vượt khỏi. Nghĩa giải thoát
được hiểu một cách sơ lược trong đây là "vượt thoát sự trói buộc của
khổ ách".
Ðã
làm thân chúng sanh thì ai chẳng phải bị khổ ách trói buộc. Và cũng vì thương
xót chúng sanh hệ lụy khổ ách nên chư Phật mới xuất hiện ở thế gian để ban phát
pháp giải khổ vậy.
Tri-kiến là thấy biết, lại còn có nghĩa là chỗ thấy và chỗ
biết. Phàm phu thấy bằng con mắt của nhãn căn (nhục nhãn - con mắt thịt) và
biết bằng ý thức, tức cái chỗ biết bằng phân biệt nhị nguyên theo khái niệm
vọng lập, hệ lụy nhơn quả. Các bậc Thánh hiền, Bồ tát thì tuỳ từng công hạnh tu
học, chứng nhập diệu pháp vô vi sâu hay cạn mà chỗ thấy biết có nhiều tầng nấc
thấp cao sai biệt, gồm từ nhục nhãn, thiên nhãn, huệ nhãn cho tới pháp nhãn.
Với chư Phật thì chỗ thấy biết gồm trọn vào ngũ nhãn, tức thêm phần thấy biết
của Phật nhãn. Bởi vậy chỗ thấy biết của đức Phật được tôn xưng là nhứt thiết
trí, là toàn biết, tức không gì không biết.
Tri-kiến
giải-thoát trong đây phải được hiểu là chỗ thấy biết của Thánh trí được vận
dụng thành lời, vượt quá trói buộc của nhị nguyên phân biệt, sanh tử nghiệp
báo, là phương tiện từ trí huệ giải thoát mà chỉ có các Ngài với nhau mới có
cùng một chỗ thấy-biết "đang-là" rốt ráo. Còn những người đang học
đạo như chúng ta, tuy cũng vẫn đối diện với những lời vượt thoát ấy, nhưng vì
chỗ thấy nghe hiểu biết của chúng ta bằng thức ý, trói buộc nhị nguyên phân
biệt, nên cần phải nương mượn tri kiến ấy làm phương tiện khai mở, cũng là học,
hiểu và hành theo tinh thần của tri kiến ấy dẫn dắt, và cuối cùng là phải biết
vượt lên khỏi mọi ý niệm về sự hiểu biết ấy thì mới có thể được gọi là tự độ
thoát.
Trong
nhơn quả, do căn cơ duyên phước theo nghiệp báo của mỗi người có chỗ khác nhau,
nên trong tiến trình tu tập, ý niệm cũng như sự cảm nhận một cách tương đối của
từng người về nghĩa giải thoát đương nhiên có chỗ sai biệt, nhưng, theo Giáo lý
nhà Phật , vị giải thoát cùng tột thì chỉ một, đó là tâm giải-thoát tuyệt đối,
là ở bờ kia.
Lại
nữa, cái khổ của chúng sanh thì muôn hình muôn vẻ. Có trăm, ngàn, vạn, ức
nghĩa khổ khác nhau được cảm nhận đối với từng mỗi chúng sanh trong cuộc trần này.
Và cũng có thể nói rằng, tự ngàn xưa nhẫn đến bây giờ, trừ những người trí căn
khiếm khuyết, tinh thần không được bình thường, thì có lẽ cũng rất hiếm người
sống trên đời mà không biết quan tâm hay không biết cầu tìm cho mình một con
đường giải thoát, trong phạm vi hiểu biết riêng tư của mỗi người. Hoặc cũng có
những người hằng ngày phải lăn lộn vì cuộc sống của tự thân và gia đình, hay
bận rộn vì chuyện theo đuổi công danh sự nghiệp mà quên mất hoặc không còn có
thì giờ để nghĩ tới chuyện giải thoát cho bản thân, nhưng trong những ngày
tháng cuối đời, hoặc thậm chí vào một lúc nào đó bất chợt trực diện với cái
chết, bên cạnh nỗi lo sợ phải rời bỏ cuộc sống thế gian, thì dù trễ tràng, vẫn
có những phút giây nghĩ tới trong niềm hy vọng mong manh và thụ động về một sự
giải thoát nào đó sẽ đến với mình như một phép lạ bằng trí tưởng tượng giản đơn
vốn có.
Nên
có thể nói, hễ đã có thân tướng ắc phải có khổ đau và đồng hành cùng cái khổ
luôn luôn trói buộc con người, là nỗi khát khao giải thoát những hệ lụy mà mỗi
con người có sự cảm nhận sai biệt theo từng nghiệp báo riêng, không ai giống
ai, nhưng đều chung cùng một ý vị, đó là vị khổ ách triền phược thân
tâm.
Ý
nghĩ chủ quan và tương đối của từng chúng sanh đối với sự giải thoát cũng thiên
hình vạn trạng, không ai giống ai, nhưng tựu chung, cái đích cùng tột của sự
giải thoát mà chúng sanh phải nhắm tới, là không ngoài việc phải vượt thoát
khỏi sự trói buộc của mối dây sanh tử trong cái vòng khép kín của luật tắc nhân
quả luân hồi, cũng là gốc rễ của mọi khổ ách. Chỉ có vượt thoát khỏi sanh tử
luân hồi mới là con đường giải thoát triệt để, mới là qua bờ kia.
Tác
nhân gián tiếp gây ra khổ ách và cũng là thủ phạm trực tiếp khiến chúng sanh
phải tự vướng mắc, trói buộc sanh tử, không ai khác hơn là ý thức, cũng tức là
cái thức biết, là tâm ý thức của mỗi người.
Mảnh
thức biết ấy, cũng gọi là tâm thức, từ một niệm bất giác vô thỉ vô minh, đã mê
mờ lầm lạc, tự vọng lập ngã-pháp như là một thực-thể, tức nhận thân tâm này và
các pháp tướng tương quan tương tác trong các cảnh giới vọng nghiệp làm thật
có, khiến phải trôi lăn vô định trong biển nghiệp thức nhơn quả luân hồi.
Vì lòng từ bi không nỡ nhìn
thấy chúng sanh tự trói buộc khổ ách mà không ban phát các pháp giải thoát, nên
đức Phật mới thị hiện cõi này để cứu độ .
Tri kiến giải thoát là chỗ thấy biết tuyệt đối của giải-thoát-tâm, là tuệ giác được đức Phật vận dụng thành lời, dùng làm phương tiện đem ra dạy dỗ các hàng đệ tử xuất gia và tại gia tu tập, trong thời Chánh pháp, khiến có vô số người được giải thoát, không sao kể xiết. Thế nên, sau khi đức Phật Niết bàn, những lời dạy dỗ ấy được chư Tổ kết tập lại, gồm chứa trong ba tạng kinh điển, được coi như làø pháp phương tiện giải thoát tối thắng, vi diệu dành cho tất thảy mọi căn cơ trên thế gian này.
Tri kiến giải thoát là chỗ thấy biết tuyệt đối của giải-thoát-tâm, là tuệ giác được đức Phật vận dụng thành lời, dùng làm phương tiện đem ra dạy dỗ các hàng đệ tử xuất gia và tại gia tu tập, trong thời Chánh pháp, khiến có vô số người được giải thoát, không sao kể xiết. Thế nên, sau khi đức Phật Niết bàn, những lời dạy dỗ ấy được chư Tổ kết tập lại, gồm chứa trong ba tạng kinh điển, được coi như làø pháp phương tiện giải thoát tối thắng, vi diệu dành cho tất thảy mọi căn cơ trên thế gian này.
Có
thể nói, ba tạng kinh điển của Phật giáo, mà nội dung không ra ngoài chánh lý
giải thoát sanh tử, được coi như là kho tàng văn hoá, triết học, đạo học, giải
thoát học đồ sộ nhất mà loài người được may mắn thừa hưởng từ trí huệ
Phật.
Chư Tổ sau Phật nhẫn đến ngày nay đã nương theo những lời dạy ấy, cũng là tri kiến giải thoát, nói diễn rộng ra để dẫn dắt chúng sanh tu hành, hầu vượt thoát sanh tử.
Chư Tổ sau Phật nhẫn đến ngày nay đã nương theo những lời dạy ấy, cũng là tri kiến giải thoát, nói diễn rộng ra để dẫn dắt chúng sanh tu hành, hầu vượt thoát sanh tử.
Và
nếu nói không ngoa thì chỉ có đạo Phật, chỉ có giáo pháp hy hữu, vi diệu, nhiệm
mầu của Như-lai mới có thể giúp chúng sanh qua bờ kia, chỗ giải thoát tuyệt
đối, vượt lìa sanh tử luân hồi.
Ðó
là một sự thật hiển nhiên. Cuộc sống vô vi, đạo hạnh, rời lìa tất thảy mọi trói
buộc, thể hiện tâm giải thoát hiện tiền của đức Phật, cũng như giáo lý giải
thoát mà Ngài phát minh từ hơn hai mươi lăm thế kỷ rưỡi qua, đã tồn tại và phát
triển mạnh mẽ khắp toàn cầu, được phần lớn nhân loại nồng nhiệt đón nhận như
ngày hôm nay, đủ minh chứng cho một sự thật này.
II.
Giải-thoát Tri-kiến giải-thoát.
Cảnh
giới của tâm giải-thoát tuyệt đối, đương nhiên không thể dùng kiến-văn-giác-tri
để tiếp cận, hiểu biết hay giải thích được. Chúng sanh chỉ có một cách duy nhất
là mượn tri kiến giải thoát của đức Phật dùng làm phương tiện để học tập, hiểu
biết, rồi thực hành lý giải thoát ấy lên chính thân tâm mình, hầu trực ngộ bổn
tánh vô sanh, cũng là tới bờ kia.
Tri
kiến ấy là những lời dạy dỗ được đức Phật vận dụng từ trí huệ. Tuệ giác ấy một
khi đã thành lời, thì lời kia không còn "như thật" như
"tánh-giải-thoát-nó-là" nữa, mà lời kia đã đi vào tướng sanh diệt
rồi. Mà đã là tướng thì đó là thể hư vọng, không phải là nghĩa "như -như
"của giải thoát tâm tuyệt đối.
Ðể
chúng sanh không lầm nhận giữa tri kiến giải thoát với bờ kia, đức Phật đã
nhiều lần cảnh giác người học đạo: " Suốt bốn mươi chín năm thuyết
pháp mà môi ta chưa hề động" . Bởi vì, nếu chấp vào chỗ động môi
của Như-lai, tức coi những lời kia làm thật, thì có khác nào chúng sanh hủy
báng Phật, coi Phật cũng có sanh tử, nghiệp báo như chúng sanh không khác,
trong khi Phật thì chẳng từ đâu đến, cũng chẳng đi về đâu, cũng tức, Phật (Phật
là không gì cả) là nghĩa như như của vạn pháp.
Bởi
thế cho nên, dùng kiến văn giác tri, dù là tri kiến giải thoát đi nữa, để nói
về giải thoát tâm tuyệt đối, chẳng khác gãi ngứa ngoài giày, gió thoảng trên
đá, không một chút dính dấp tới "nó".
Một
thí dụ. Có người đến gặp Thiền sư Huệ-Hải, nói:
- Ðịnh hỏi Thầy một câu, không biết có vui lòng đáp chăng?
Ngài Huệ Hải đáp:
- Bóng trăng dưới đầm sâu, mặc tình mò bắt.
Ở
đây, nếu đã cùng ngài Huệ-Hải một chỗ, thì đâu cần phải mở miệng. Còn chẳng
được như vậy, thì dẫu có ngàn câu hỏi (dụng thức biết) đối với chỗ muốn tiến
tới (tánh biết) hoàn toàn không thể được, chẳng khác mò trăng trong nước, dẫu
ngài Huệ-Hải có đáp thì lời đáp ấy cũng có dính dấp gì tới chỗ tuyệt
"một" kia đâu?
Chúng
ta cần phải hiểu một cách cặn kẽ rằng, ba tạng kinh điển của Phật giáo và những
lời dạy của chư Tổ sau Phật, tức các Ngữ-lục, đều là pháp phương tiện hy hữu,
diệu mầu để độ thoát sanh tử. Tuy nhiên phải tránh lầm lẫn giữa phương tiện và
cứu cánh, nghĩa là tri kiến giải thoát phải được đinh ninh là phương tiện tạm
mượn, còn bờ kia mới là cứu cánh. Bằng không hiểu hay không muốn hiểu như thế,
do vô tình hay cố ý vì nặng chấp "ngã-pháp", ắc dễ đắm chìm theo phương
tiện, khó bề vượt thoát sanh tử, uổng phí một đời tu. Ðó là một sự thật.
Bởi
tri kiến ấy cho dù vi diệu, nhiệm mầu đến đâu thì nó vẫn là phương tiện, như
mượn tay chỉ trăng, mà tay kia chẳng phải là trăng thật. Thí như qua sông ắc
phải mượn đò, nhưng đò chẳng phải là bến đỗ. Thế nên mượn đò qua sông mà chẳng
biết tự chèo chống, chẳng chịu tự bước lên bờ thì cũng chưa phải là đã ở bờ
kia. Hành giả chỉ được độ thoát khi nào đúng lúc cần phải bỏ phương tiện để tự
bước lên bờ, tức thời gian chín muồi để có thể vượt quá cái điểm nhỏ nhất của ý
thức, cũng là tự cắt đứt dòng tương tục của tri thức, mà trong đây là tri kiến
giải thoát, ngay ở chỗ mong manh vi tế nhất, để tự thăng hoa. Bằng đã sát tới
bến, chỉ cần một bước nhảy dứt khoát là lên được bờ kia mà chẳng chịu nhảy,
chẳng chịu buông bỏ con thuyền, coi con thuyền như là một đối tượng của bản ngã
cần được chấp thủ, hoặc như là một vật báu riêng phải giữ gìn, thì không bao
giờ có thể tới bờ kia. Cuối cùng, theo luất tắt sanh diệt, hành giả ắc phải chết
chìm với cái riêng tư trói buộc ấy là điều khó tránh khỏi.
Y
nghĩa của việc giải-thoát tri-kiến, là người tu Phật cần phải biết giũ bỏ sạch
sẽ tất thảy những gì được gọi là kiến thức và kinh nghiệm học Phật, dù là tri
kiến giải thoát đã từng được tích lũy lâu đời đi chăng nữa, để có bước nhảy
cuối cùng tự độ qua bờ kia. Không tự buông rơi được những phương tiện giả lập
ấy, có nghĩa là bị tri kiến giải thoát trói buộc, ắc khó lòng có được bước nhảy
đột ngột, tức thời và dứt khoát.
Cũng
vì sợ chúng sanh lầm chấp vào các phương tiện giải thoát hy hữu của đức Phật,
chết chìm với tri kiến giải thoát kia, nên trong hầu hết các kinh Ðại thừa
Phương đẳng, Vô lượng nghĩa, đức Phật không quên ân cần dặn dò các đệ tử lớn
của mình phải nhận ra cho được điều đó.
Thí
như trong kinh Kim-Cang Bát-nhã Ba-la-mật, ngài dạy rất rõ ràng: "Này các
Tỳ Kheo ! Hãy nên biết, pháp ta thuyết đó dụ như bè, pháp còn phải xả bỏ huống
là phi pháp - Nhữ đẳng Tỳ-kheo, tri ngã thuyết pháp như phiệt dụ giã,
pháp thượng ưng xả hà huống phi pháp".
Trí
huệ giải thoát, tức chỗ thấy biết của thánh trí, hoàn toàn không phải là đối
tượng để cho chúng ta hiểu biết, dù là tri kiến của kẻ bác học, mà phải dụng
tâm "thực-hành" lên chính thân tâm này một cách như pháp, theo đúng
tinh thần của tri kiến giải thoát đã được học và hiểu. Nghĩa là trong đời tu
Phật, ba việc Học-Hiểu và Hành đối với tri kiến giải thoát, không thể tách rời
hay thiếu một.
Ví
như, không có duyên may gặp được tri kiến giải thoát của đức Phật trong đời,
hoặc có sẵn tri kiến ấy trong sách vở nhưng không hiểu đức Phật nói gì, mà chỉ
biết tự thân ngày đêm gắng sức tu mò, thì có khác nào như bỏ công sức nấu cát
mà muốn thành cơm, hoặc mài gạch mà mong thành gương soi, đó là việc không thể
được.
Hoặc
được chỉ dạy tri kiến giải thoát của đức Phật, biết được lý lẽ, phương cách để
đến bờ kia, nhưng tự thân lại giải đãi, không chịu y pháp thực hành lý giải
thoát ấy, mà mong có lúc tới bờ kia, thì có khác nào ôm cây đợi thỏ hoặc nằm
chờ sung rụng, biết đến bao giờ mới vượt khỏi khổ ách sanh tử, trong khi đời
người ngắn ngủi, ngày tháng qua mau.
Ở
đây chúng ta cần phải hiểu rõ cái gì là mầm móng khiến chúng sanh trói buộc
sanh tử? Cội rễ của sự trói buộc ấy không gì khác hơn là tâm ý thức. Và tri
kiến giải thoát cũng không ra ngoài sự chi phối của cái tâm ý thức ấy, nghĩa là
còn biết có chỗ kiến giải để được giải thoát, thì ngay chỗ "biết" ấy
là có sự cột buộc vào sanh tử. Bởi cớ sao? Bởi vì khả năng suy tưởng, tư duy,
nhớ nghĩ còn chưa dứt sạch thì chủ thể của những năng lực ấy vẫn còn, tức pháp
ngã vẫn tồn tại. Pháp ngã tồn tại thì các pháp tướng khác hiện hữu, và đương
nhiên cảnh giới hiện tượng của nhị nguyên phân biệt trói buộc tức
khắc.
Trong
từng mỗi chúng sanh hữu tình đều sẵn có hai tâm, một tâm phân biệt theo khái
niệm tương đối, tự trói buộc nhơn quả, cũng là tâm ý thức (thức biết) sanh diệt
phàm tình và một tâm tuyệt đối, tự tại, phi sanh diệt, cũng là Phật tâm, là
giải thoát tâm tuyệt đối. Tâm ý thức là bóng hình, là dụng của tâm tuyệt đối mà
có. Nghĩa là, từ vô thỉ, chỉ vì một niệm bất giác vọng sanh, khiến những mảnh
thức tâm (thức biết) trùng trùng tuông sanh, mà từng mỗi mảnh thức ấy vẫn dung
chứa trọn vẹn tánh căn bản của Phật tâm. Cho nên nói hữu tình đều vốn sẵn có
hai tâm. Những mảnh thức biết ấy lại vọng động, khiến có thế giới hiện tượng
sanh khởi, khái niệm nhị nguyên phân biệt vọng thành, vì tự chấp có "ngã
và pháp" là thật có. Vì chấp, cũng tức là chỉ nhìn một hướng theo thế giới
hiện tượng phân lập, mà ngã được coi như là một chủ thể thực tại, nên mảnh thức
biết ấy hoàn toàn xoay lưng lại với cái tánh biết căn bản vô sanh, khiến phải
tự trói buộc vào cảnh giới sanh tử luân hồi do chính thức biết vọng lập. Cứ xem
bóng dáng của những mặt trăng huyễn hoặc biến hiện trên sóng nước thì tự nghiệm
ra được chỗ này.
Nội
dung của bài viết này không ngoài việc người học Phật cần phải biết vượt khỏi
tất thảy mọi tri kiến, cũng là con đẻ của thức biết, để tự độ thoát.
Vậy,
giải thoát tri kiến giải thoát là điều kiện tất yếu của người tu Phật muốn vượt
thoát trói buộc sanh tử.
Ðể
"ngộ" bổn thể tuyệt đối, cũng là chỗ thấy biết vượt quá cảnh giới
trói buộc sanh tử, thì những gì được gọi là tri thức, tức cái tâm ý thức dệt
bằng khái niệm phân biệt, là kinh nghiệm tích luỹ từ thuở lọt lòng mẹ, phải
được gột tẩy sạch sành sanh, dù một chút cỏn con vi tế cũng không được sót lại,
kể cả kinh nghiệm tri kiến giải thoát.
Cho
nên, lúc mới đầu, người tu Phật cần biết mượn phương tiện độ thoát là tri kiến
giải thoát để có chỗ thấy biết chơn chánh, rồi tự thân thực nghiệm theo lý chơn
chánh ấy để cắt đứt, vượt lên quá trói buộc của tâm ý thức, cũng là gốc rễ của
sanh tử, mà thăng hoa. Thăng hoa ở đây có nghĩa là cái biết của ý thức ngưng
dứt ở đâu thì ngay đó cái thấy biết của tâm tuyệt đối tức thì bùng vỡ, mở
toang, tất thảy phô bày, cũng là giải thoát tâm hiển lộ.
Tuy
nhiên, ngày nay vẫn có người lầm tưởng phương tiện là cứu cánh, khiến họ không
thể vượt thoát khỏi cái vốn kiến thức bác văn giàu có của mình, không tự biết
rằng đó là bệnh. Căn bệnh ấy rất khó chữa, thuộc loại trầm kha, nhưng người mắc
bệnh lại cảm thấy rất dễ chịu vì nó có thể ru ngủ và vuốt ve cái tâm chấp ngã
cố hữu. Nghĩa là, tuy biết rõ đó là bệnh, nhưng người ta vẫn hoan hỉ, vui thích
sống với nó, tự nguyện chết cùng nó, vì ngã kiến của họ đã được thoả mãn.
Kẻ
hành giả ấy đâu biết rằng, dù chấp thủ, vun đắp cho mình một kho tàng tri thức
cao siêu tới đâu đi nữa, thì đối với bờ kia, chỗ kiến văn ấy cũng chẳng chút
dính dấp tới, nếu không muốn nói rằng chính nó là thủ phạm làm chướng ngại bước
đường vượt thoát sanh tử của người ấy. Sở tri chướng được định danh định tính
như là mặt mũi của kẻ ngán đường, làm cản ngại và trì trệ tiến trình đến bờ
kia, mà không hiếm người trong chúng ta vì vô tình nên thường hay bị vướng mắc.
Người học đạo cần phải biết vượt qua chỗ này, tức cần phải giải thoát tri kiến
giải thoát.
Một
thí dụ.
Có một tăng nhân đến hỏi đạo ở chỗ ngài Văn-Ích.
- Bạch Thầy ! Muốn cầu tri kiến Phật, con đường nào ngắn nhất để có thể
đi qua?
Ngài Văn-Ích đáp:
- Chắc chắn không qua đây !
Ngay câu đáp này, vị tăng nhân chợt tỉnh ngộ.
"Không qua đây".
"Ðây", "chỗ này", nếu chẳng phải là sở học tràn đầy tri
kiến, hay nếu chẳng phải là cái thức ý lúc nào cũng sẵn sàng, chờ chực phân
biệt, cân đong đo đếm, biện biệt phải trái, xa gần đúng sai trói buộc nhơn quả,
thì phải nên gọi là gì? Chợt nhận ra nó và biết tự lìa nó, vượt thoát cái tâm ý
thức ấy, thì vô minh liền tan biến, giải-thoát-tâm tuyệt-đối phô bày.
Lại nữa, vẫn biết rằng đạo Phật là đạo giải thoát, và từng người có duyên với từng mỗi pháp môn khác nhau, phương cách thực hành mỗi pháp cũng khác nhau, nhưng cứu cánh thì chỉ một, đó là tâm giải thoát tuyệt đối, là bờ kia. Và để đến được bờ kia, thì cả thân lẫn tâm cũng không thể không đi qua con đường "thực hành" Giới, Ðịnh, Huệ, Tri kiến giải thoát và Giải thoát Tri-kiến giải-thoát.
Lại nữa, vẫn biết rằng đạo Phật là đạo giải thoát, và từng người có duyên với từng mỗi pháp môn khác nhau, phương cách thực hành mỗi pháp cũng khác nhau, nhưng cứu cánh thì chỉ một, đó là tâm giải thoát tuyệt đối, là bờ kia. Và để đến được bờ kia, thì cả thân lẫn tâm cũng không thể không đi qua con đường "thực hành" Giới, Ðịnh, Huệ, Tri kiến giải thoát và Giải thoát Tri-kiến giải-thoát.
Dù
tu pháp môn nào, kể cả Không-pháp (Không-pháp cũng là một pháp hy hữu, tối
thắng của đức Phật dành cho người thượng căn, thượng trí, cũng là Tối thượng
thừa pháp - Trực chỉ nhơn tâm, kiến tánh thành Phật) thì cũng không thể không
nhập đạo bằng hai lớp cữa, đó là Lý nhập và Hạnh nhập.
Lý
nhập là thể nhập chân lý giải thoát, còn hạnh nhập là thực hành chân lý ấy một
cách tự nhiên như nhiên mà không có một chút "ý" nào được gọi là cần
phải "hành" cả. Thí như đói thì ăn, khát thì uống, mệt thì đi nằm, mà
trong đây không khởi lên một ý niệm nào trái với sự tự nhiên như nhiên của Ðạo,
tức không vọng khởi phân biệt, trói buộc nhơn quả. Cả lý và hạnh đều thể nhập
đạo thường, cũng tức là sự lý viên dung, thì đó là chỗ đến đi tự tại.
Với
người tu Phật, muốn vượt thoát sanh tử, thì ai cũng đều phải tự thân vượt qua
cái khung cửa hẹp bắt buộc, đó là phải như lý, y pháp mà thực hành, để đạt tới
cứu cánh lý sự viên dung, sự lý vô ngại.
Bằng
hiểu rành rẽ, thao thao bất tuyệt lý giải thoát của đức Phật mà không tự thân
thực hành như pháp các lý ấy, thì đó chỉ là người tu Phật bằng miệng mà thôi.
Mà tu Phật bằng miệng thì đương nhiên không sao có thể tự giải thoát sanh tử
được. Ðiều ấy có khác nào một người làu thuộc phương cách nấu cơm từ A đến Z mà
vẫn bị chết đói, bỡi lẽ, thay vì chịu bỏ công vo gạo, chẻ củi, nhen lửa, nấu
cơm thì người ấy chỉ biết nói lý thuyết suông, thì không có cơm ăn là điều tất
yếu, không chết đói mới là sự lạ. Hoặc thí như ai cũng biết sát sanh là giới
đầu tiên trong ngũ giới, thập giới - là giới luật của người tu Phật tại gia
phải giữ gìn. Tuy biết rằng không phải cứ ăn chay mãn đời, suốt kiếp thì sẽ
thành Phật, nhưng ăn chay đối với đạo Phật vẫn luôn là một điều kiện không thể
thiếu. Việc ăn chay của Phật tử được ghi nhận như là một cách gián tiếp để giới
sát, ban phát sự sống cho muôn loài có cùng Phật tánh như mình, cũng là thể
hiện một cách trực tiếp tâm từ bi như Phật thương khắp chúng sanh. Lại nữa, ăn
chay cũng là một pháp tu, một pháp điều tâm dưỡng thân, hỗ trợ đắc lực cho tiến
trình tu chứng về mặt trí huệ, tức tạo thuận lợi một cách tích cực cho sự
nghiệp cuối cùng của người tu Phật là trực ngộ bình đẳng tánh. Ích lợi của việc
ăn chay là làm "tự lợi lợi tha", một điều không ai có thể phủ nhận
được. Thế nhưng vẫn có không hiếm người thường hay phớt lờ giới thứ nhất trong
thập giới, rồi mượn miệng lưỡi để nguỵ biện rằng ăn chay không quan trọng đối
với sự nghiệp tu hành hay chẳng dính dấp gì tới "trí tuệ" của mình
cả, mà không dám nói thật lòng, là ăn mạng bổ béo, khoái khẩu hơn ăn
chay.
Biết
pháp mà không chịu như pháp hành trì, có khác nào biết là tội đấy mà vẫn cố
phạm.
Chỉ
biết rành giáo lý của Phật mà không đem cả thân lẫn tâm ra thực hành giáo pháp
ấy, chỉ dùng thế trí biện thông để miệng lưỡi biện biệt thấp cao, hay dở, đúng
sai, hoặc phải như thế này mà không phải như thế kia, chê khen cùng khắp, thì
chắc chắn việc tu học như thế chẳng đem lại một thành tựu công đức nào đáng kể.
Những người tu học như thế ấy cùng lắm cũng chỉ được cái danh hão trong đời là
người biện sĩ tài ba hay là nhà triết học xuất chúng mà thôi, khó bề vượt thoát
sự trói buộc của sanh tử luân hồi, với bờ kia ắc còn ngàn trùng xa cách.
Có
thể có bạn đạo nào đó cho rằng những gì mà người viết nêu ra đều là những ý
tưởng cũ rích, ai mà chẳng biết.
Xin
thưa, đúng vậy, đúng vậy! Ðó là những điều cũ rích, xưa cũ từ trước khi chúng
ta được sinh ra trong cõi nhơn quả này hàng nhiều đời nhiều kiếp trước nữa là
đằng khác. Thế nhưng, dù là những điều xưa cũ, mà những người như chúng tôi,
như các bạn, nếu ngày nào còn chưa tự thân thực hành đúng như cái lý xưa cũ ấy
để tự giải thoát, thì ý tưởng và các pháp ấy vẫn sẽ còn mới toanh, vẫn trinh
nguyên như thuở ban đầu, còn chúng ta thì vẫn cứ phải đến đi trong nhơn quả luân
hồi với nhiều thân tướng, nghiệp báo khác nhau. Ví bằng chúng ta biết thực hành
những gì xưa như trái đất ấy một cách chân chính, không tự dối lòng, ắc tự tâm
mỗi người khó bề không công nhận một sự thật, rằng càng thực nghiệm, chúng ta
càng khám phá ra không biết cơ man nào những điều vi diệu, nhiệm mầu, mỗi ngày
càng thêm bao điều mới lạ trong một Phật tâm này.
Cần
phải biết y như pháp thực hành, phải biết giải thoát tri kiến giải thoát, đó là
những gì mà kẻ khờ khạo này muốn gởi gắm vào nội dung của bài viết và rất mong
các bạn đạo thân thiết của chúng ta nên áp dụng một cách thực tế vào các pháp
tu phù hợp với căn cơ mỗi người, lên chính bản thân mình.
Bằng
ngược lại, nếu những lời này không thuận hợp đạo lý của chư Phật, Bồ tát, Thánh
hiền, đi ngược lại giáo lý giải thoát của Như-lai, thì chúng tôi xin được muôn
lần dập đầu sám hối để mong gột sạch cái tâm ngu mê, lầm lẫn này vậy.
Ðối
với Phật đạo, siêu vượt trói buộc của tử sanh phiền não, nhơn quả luân hồi là
một việc rất thực tế, hoàn toàn không phải là điều viễn vông hay mơ mộng.
Nghĩa là một Phật tử chân chính, dù tu tại gia hay xuất gia, nếu biết chọn lựa
pháp môn thích hợp với căn cơ trí tuệ phúc đức của mình mà tu học, biết nhứt
tâm y theo lời dạy của đức Phật mà hành trì, lòng dạ chơn chất, không tự dối,
không cống cao ngã mạn, không cầu lợi cầu danh, thì không phải đợi đến khi chết
đi mới có thể biết giải thoát hay không giải thoát, mới biết vượt lìa hay còn
cột buộc nghiệp báo sanh tử, mà ngay trước mắt, trong đời này, vẫn có thể thật
chứng tâm giải thoát hiện tiền.
Tâm
giải-thoát hiện tiền của nhà Phật là cảnh giới của Thiền và Ðịnh. Thiền
là công việc hành trì cuối cùng trong tiến trình một đời tu chứng, cũng là nơi
ươm mầm để khai phóng tất cả mọi trí năng vốn tự sẵn có, để thân chứng tánh
"chơn không" của vạn pháp, để ngộ ra tất thảy pháp đều do một tâm bất
giác duyên sanh. Ngay trong đây, tại chỗ này có sự thấy biết chân chính bằng
con mắt trí huệ, biết như thật tứ đại, ngũ uẩn đều không, sanh tử phiền não
cũng chẳng phải thật có, các pháp sanh diệt đều như hoa đóm biến hiện, liền tự
thăng hoa. Sống "một" trong Thiền, thì việc ra vào cảnh giới sanh tử
trước mắt, bằng ánh sáng của trí huệ, chẳng khác như cái bóng ảo của thân mình
vào ra trong một mặt gương vĩ đại mà không hề bị ngăn ngại. Thời gian sống
trong Thiền càng lâu, nghĩa là ở trong tánh biết càng dài, có thể gọi đó là tâm
Thường-Ðịnh vậy.
Có
thể có người hỏi rằng, cảnh giới của Thiền là thanh tịnh, nhứt như, tuyệt một,
vậy thì nói "biết" đó, là ai biết?
Xin
thưa, đó là tánh biết nguyên uỷ tuyệt đối, là tánh Phật chúng sanh
"biết" như thật. Ngay từ khi thể nhập tánh biết, sau đôi ba lần tự
mình "vào" nhập vai tánh biết, "ra" nhập vai tướng biết, mà
sự ra vào ấy chỉ trong sát na, liền biết như thật, chỗ đến đi nói nín thường
nhật đều do từ một tánh linh diệu căn bản này mà ra, cũng là biết như thật đâu
là pháp thân tự tại phi sanh diệt, đâu là pháp tướng huyễn hoặc, vọng sanh vọng
diệt do từ một niệm bất giác vô minh sanh khởi. Rồi từ hai chỗ thấy biết cùng
ra vào trước mỏ ác của một con người này, một cái thấy biết phàm tình trói buộc
nghiệp báo nhơn quả, và một cái thấy biết tự tại siêu vượt nhơn quả, cả hai
thông lưu vô ngại nhau, thì ngay đây, dù không khởi niệm phân biệt, mà chơn
giả, chủ khách hai đàng vẫn biện biệt rõ ràng. Dù không phân biệt mà thực tại
và mộng cảnh vẫn biện biệt phân minh, biết như thật gì là bản thể như nhứt vô
sanh, gì là vạn pháp huyễn hoá biến hiện, biết tuỳ duyên đến đi trong các cõi
để thực hành hạnh nguyện từ nhiều đời làm chúng sanh trong quá khứ, cũng là
cách trả ơn ba đời chư Phật, đồng thời tích góp công đức để tự trang nghiêm cõi
Phật vị lai.
Ðạo
Phật là đạo giải thoát. Ðức Phật là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành.
Ðó là chân lý bất biến. Chỉ có điều chúng sanh có biết y theo giáo lý giải
thoát của Phật để tu một cách chân chính hay không, thì đó là chỗ quyết định
thành tựu công đức ấy một cách nhanh chóng ở đời này hoặc đời sau, hay phải
trải qua trong vô lượng kiếp chúng sanh nữa mới thành, là tuỳ ở chúng sanh
ấy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét