Thứ Ba, 10 tháng 1, 2017

TẠI SAO TÔI ĐI TU

Tôi chọn làm Tỳ Khưu

Dhammesaka lược dịch từ "Verses of Arahant Ratthapala", 
Trung Bộ Kinh, Kinh 82 - Kinh Ratthapala

Ðây là bài kệ của Ðại Ðức Ratthapala tóm lược lại cuộc đối thoại giữa Ngài và vua Koravya để nói lên lý do tại sao Ðại Ðức trở thành Tỳ kheo:
Tôi đã thấy biết bao người giàu có
Chưa bao giờ từ bỏ tánh tham lam
Vẫn mãi mê ham của cải bạc vàng
Vẫn khao khát chạy hoài theo khoái lạc
I see in the world
people with wealth
who, from delusion,
don't make a gift
of the treasure they've gained.
Greedy, they stash it away,
hoping for even more
sensual pleasures.
Tôi đã thấy biết bao là vua chúa
Chưa bao giờ an phận với giang san
Dù biên cương giáp bốn biển ngút ngàn
Vẫn muốn nữa, muốn biên thùy rộng mãi
A king who, by force,
has conquered the world
and rules over the earth
to the edge of the sea,
dissatisfied with the ocean's near shore,
longs for the ocean's
far shore as well.
Người thế gian, từ bần dân, vua chúa
Trước tử thần, tâm vẫn còn tham
Tiếc công danh, tiếc sự nghiệp chưa thành
Nhưng phải bỏ, tay buông xuôi, nhắm mắt
Kings and others
-- plenty of people -- 
go to death with craving
unabated. Unsated
they leave the body behind,
having not had enough
of the world's sensual pleasures.
Quanh người chết bao người than, kẻ khóc
"Hỡi người thân! Sao vội bỏ ra đi!"
Trong áo quan, người nằm đó im lìm
Lửa thiêu đốt, xác thân thành tro bụi
One's relatives weep
and pull out their hair.
'Oh woe, our loved one is dead,' they cry.
Carrying him off,
wrapped in a piece of cloth,
they place him
on a pyre,
then set him on fire.
Ðem theo gì, trên mình manh vải liệm!
Còn lại chi, bia mộ khắc đôi hàng!
Dù muốn về trở lại cõi trần gian
Nhưng phải chịu tái sanh theo nghiệp định
So he burns, poked with sticks,
in just one piece of cloth,
leaving all his possessions behind.
They are not shelters for one who has died -- 
not relatives,
friends,
or companions.
Kẻ còn sống đang tranh giành thừa kế
Người chết nầy chỉ có nghiệp đem theo
Khi ra đi tay trắng chẳng mang gì
Bỏ con cái, bạn đời cùng của cải
His heirs take over his wealth,
while the being goes on,
in line with his kamma.
No wealth at all
follows the dead one -- 
not children, wives,
dominion, or riches.
Bách niên đại thọ bạc tiền nào mua nổi
Biển ngọc rừng vàng sao tránh khỏi già nua
Lời thánh nhân nhắc nhở lẽ Vô thường
Ngắn ngủi lắm! Kiếp người, nên ghi nhớ!
Long life
can't be gotten with wealth,
nor aging
warded off with treasure.
The wise say this life
is next to nothing -- 
impermanent,
subject to change.
Bậc có trí quán tưởng luôn sự chết
Phút lâm chung tâm bình thản an nhiên
Kẻ phàm phu không quán tưởng thường xuyên
Nên phút cuối lâm chung đầy sợ hãi
The rich and the poor
touch the touch of Death.
The foolish and wise
are touched by it, too.
But while fools lie as if slain by their folly,
the wise don't tremble
when touched by the touch.
Trí tuệ quý hơn tiền tài của cải
Trí tuệ giúp người đạt Ðạo Quả Vô Sanh
Kẻ si mê biết bao kiếp đạt thành
Trôi nổi mãi trong luân hồi vô tận
Thus the discernment by which
one attains to mastery,
is better than wealth -- 
for those who haven't reached mastery
go from existence to existence,
out of delusion,
doing bad deeds.
Từ bào thai người sanh về cõi khác
Tiếp tục hành trình đi mãi không thôi
Còn vô minh, nghiệp quả trói thân mình
Hết Sinh-Tử-Tái Sinh vòng lẫn quẫn
One goes to a womb
and to the next world,
falling into the wandering on
-- one thing
after another -- 
while those of weak discernment,
trusting in one,
also go to a womb
and to the next world.
Như kẻ cướp chịu luật đời phân xử
Nghiệp chúng sinh, luật nhân quả nghiêm minh
Ðể đời sau, nghiệp cũ bước theo mình
Trổ quả dử, khổ người gây nghiệp ác
Just as an evil thief
caught at the break-in
is destroyed
by his own act,
so evil people
-- after dying, in the next world -- 
are destroyed
by their own acts.
Dục lạc ngũ trần, vị ngọt ngon thơm ngát
Làm động lòng, làm xao xuyến tâm can
Thấy hiểm nguy trong vị ngọt ẩn tàng 
Làm ẩn sĩ, tôi sống đời thanh thản
Sensual pleasures -- 
variegated,
enticing,
sweet -- 
in various ways disturb the mind.
Seeing the drawbacks in sensual objects:
that's why, O king, I went forth.
Kiếp người mong manh như nhánh cây đầy trái
Gió rung cành, trái xanh, chín, rụng rơi!
Bởi hiểu thế, tôi đắp y cạo tóc
Làm Tỳ khưu vui đạo sống thanh bần 
Just like fruits, people fall
-- young and old -- 
at the break-up of the body.
Knowing this, O king,
I went forth.
The contemplative life is better
for sure.
Dhammesaka lược dịch, 
23-07-1999
English translation by 
Bhikkhu Thanissaro

http://www.budsas.org/uni/u-vbud/vbkin176.htm

Thứ Năm, 30 tháng 4, 2015

NÉT ĐẸP VỀ HÌNH ẢNH TĂNG ĐOÀN KHẤT THỰC 
(Bài viết: Thiện Giải)

Hình ảnh Khất thực được xuất hiện ngay thời đức Phật thành đạo, Ngài đã duy trì hạnh trì bình khất thực hóa duyên vào mỗi buổi sáng sớm đi trên các nẻo đường làng, vào những xóm nông thôn của những con đường để gieo duyên lành hóa độ đến những chúng sanh và những người hữu duyên. Từ đó hình ảnh này đã được nhân rộng và  nhiều được lan tỏa khắp các nẻo đường vào mỗi buổi sáng, hình ảnh vị Khất sĩ đầu trần chân không, thân tướng trang nghiêm đạo hạnh của bậc giác ngộ giải thoát đã toát ra đức từ bi và trí tuệ làm mọi người cung kính và quy ngưỡng theo hộ trì và tu tập. Và hình ảnh đó được phát triển mạnh và nhiều tại quốc độ Việt nam vào những thập niên 40 khi đất nước chưa giải phóng, với sức hút mạnh của những nhà sư Việt nam đã làm bao nhiêu người theo để tu học, những năm đầu hình thành và phát triển đạo là xuất hiện nhiều ở các tỉnh Miền Tây Nam bộ, bóng y vàng của những nhà Sư Khất sĩ của Đức Tổ sư Minh Đăng Quang đã làm cho giáo pháp Khất sĩ này được hình thành ngày một lớn mạnh cả về Tịnh xá lẫn số lượng Tăng Ni và tín đồ Phật tử. Với hình ảnh này là hình thức hoằng pháp qua thân giáo và khẩu giáo đem lại tự lợi và lợi tha rất được các nhà Sư thời đó duy trì và chú trọng, vì hình thức này không làm cho các vị bị ràng buộc trong đời sống vật chất của tứ vật dụng, mà chỉ dành cho việc gìn giữ đời sống tu tập và trang nghiêm đời sống thân và tâm hướng đến đời sống tu học giác ngộ giải thoát, với hình  thức hoằng pháp này tạo điều kiện cho mọi tầng lớp con người đều có thể gieo duyên và có niềm tin tìm hiểu và theo tu học.
  Tại sao có sức hút mạnh như thế, không phải vì do hình ảnh đẹp từ những bậc giải thoát mà do từ nơi sự tu hành, hành trì đúng chánh pháp của các vị mà đã toát lên hình ảnh từ bi trí tuệ và giải thoát. Và hình ảnh này được Phật thể hiện thật sóng động đã làm bao người niềm tin theo Phật tu tập và vì do các vị đã gìn giữ đời sống chánh pháp, nghiêm trì giới luật phạm hạnh giải thoát.
1.      Tìm hiểu về Khất thực
       Khất thực là pháp mà ba đời chư Phật đã hành trì và duy trì đến ngày nay. Đây là pháp chơn chánh tạo một hình ảnh đẹp và là hình thức hoằng pháp xuất hiện có mặt phổ biến ngay thời Phật, thể hiện được ba ngôi báu hiện hữu trong mọi nơi đến những chúng sanh hữu duyên. Về phần tìm hiểu Khất thực đã có nhiều bài viết trình bày vấn đề này rất phong phú, nhưng bài viết này người viết chỉ làm rõ pháp Khất thực qua chỗ khất thực, khất cái và ăn xin; giữa nhận và cho đúng pháp, khất thực đúng pháp về lý và sự.
Người khất thực là phải đúng với tinh thần chánh pháp: không xin tiền, không Khất thực vào những ngày rằm, những tháng an cư. Ngoài một số tình huống ngoại lệ, tất cả những người xuất gia cần phải thực hành hạnh khất thực như một pháp tu hiệu quả. Các trường hợp ngoại lệ không nên khất thực bao gồm: a) suốt ba tháng an cư, b) Trong phạm vi các khu vực nguy hiểm đến tính mạng như nơi có chiến tranh, thú dữ và giặc cướp. Việc hành khất trong thời gian này không thuận lợi do vì sự trở ngại của mùa mưa. Quan trọng hơn, suốt thời gian ba tháng an cư, tất cả các hành giả cần hội họp một trú xứ để thăng tiến tâm linh sau chín tháng làm Phật sự và dấn thân. Đối với khu vực nguy hiểm, việc hành khất trở nên vô nghĩa vì đối tượng hoá độ ở đây không có.[1]
Người khất sĩ là phải giác ngộ luôn sống trong giới pháp thanh tịnh để tùy duyên hóa độ, lấp pháp Khất thực là pháp nuôi sống chơn chánh của người tu hành và hành đạo. Khi đã thế phát, ly gia cắt ái, nguyện xuất gia làm Tăng đồ, tức là được sanh vào dòng Phật, dù trước kia là vua, quan nhà tướng, phù hộ, giàu sang quyền quí đến đâu, nay đã xuất gia rồi, có tam y, quả bát là món cần thiết cho sự sống hằng ngày, để khỏi bận tâm lo sắm vật thực. Hằng ngày mang bát xin ăn, đi từ nhà này sang nhà khác, không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo chủng tộc. Ðã là kẻ ăn xin, tự nhận mình gởi sự sống nơi kẻ khác, tùy lòng bố thí, dở, ngon, nhiều, ít, mặn, lạt cũng vui lòng nhận. Tánh tự cao, ngã mạn của mình đương nhiên bị mài dũa dưới cấp hạ đẳng bần dân là một kẻ ăn xin. Nếu gặp phải kẻ chê bai, chỉ trích, nhà sư cũng cam chịu với lòng nhẫn nại và thứ tha cho người kém sự hiểu biết. Nhờ đó mà lòng sân nộ, tự ái, không có cơ phát khởi. Bình thản chịu đựng mọi lời dèm pha nhẫn nại với nắng chan, đá cứng, nhà sư đem cái thân Như Lai tướng ra gợi ý cho những người có lòng bác ái và nhân từ, họ suy nghĩ đến nền đạo đức của nhà Phật mà phát tâm thương xót, thể hiện bằng cách bố thí, rồi tìm hiểu giáo lý Ðạo Phật thêm.[2]
       Như trong lời Kinh Đức Phật đã dạy trong bài kinh Khất Thực Thanh Tịnh  đức Phật đã dạy về phương pháp khất thực thanh tịnh, theo truyền thống của chư Phật. Khất thực thanh tịnh là cách thức thiết lập sự an trú vào “không tánh” trong từng bước chân trên cuộc đời và đặc biệt là trong lúc tiếp nhận phẩm vật hiến tặng của tha nhân. Trên đường khất thực, vị xuất gia phải xây dựng chánh niệm khi các giác quan tiếp xúc với các đối tượng của chúng, không để cho thái độ tham đắm, sân hận và si mê khởi lên trong tâm. Vị hành giả khất thực phải tận dụng cơ hội để làm phát sanh tâm hoan hỷ với đời sống giản đơn nhưng thanh cao, ngày đêm tu học các pháp thánh, từ bỏ một cách vĩnh viễn năm dục lạc có khả năng làm cho hành giả đắm chìm trong khoái lạc giác quan. Với những bước chân thảnh thơi trên những nơi thành thị, làng xã, tụ lạc, hay những cánh đồng, vị tỳ-kheo khất thực tháo gỡ được năm trói buộc tâm, thấu rõ được bản chất chấp thủ năm nhóm nhân thể (năm thủ uẩn), tu tập hoàn thiện 37 phẩm trợ đạo, đầy đủ chỉ và quán, chứng đạt được giác ngộ ngay trong hiện tại.
      Và theo Kinh Phật, trước khi lên đường khất thực, trong lòng các vị sư nguyện rằng: “Nguyện cho các vị Khất giả thảy đều được no đủ và nguyện cho các thí chủ thảy đều được phước báu vô lượng. Như nay tôi được món ăn là dùng để điều trị cái thân độc hại này, để tu tập thiện pháp, lợi ích cho thí chủ”. Mặt khác, khi đi khất thực, họ phải giữ tâm bình đẳng, nghĩa là theo thứ tự nhà của dân, không chỉ đến nơi nhà giàu mà cũng không chỉ nơi nhà nghèo. Đức Phật đã nhấn mạnh: “Chỉ khi nào thân tâm được điều phục, thực hành chánh niệm và phòng hộ các căn thì mới đi vào làng khất thực”.[3]
       Qua lời dạy của Phật cho người hành trì pháp Khất thực đúng chánh pháp để cho hành giả an trú trong chánh niệm và giúp cho việc thọ nhận và người cho và cúng cũng có phần đúng phép tạo nhiều công đức và phước báu. Còn việc Khất cái hay ăn xin là những người do vì nghèo khổ đời sống thiếu thốn đã dã mạo đạo hạnh người tu mà làm những việc phi pháp. Họ biểu hiện một thân tướng qua chiếc áo nhà tu, vì do tâm của họ còn nhiều ô uế của tham, sân và si nên đã tạo hình ảnh xấu, thiếu đạo đức và trang nghiêm cho những nhà tu hành chơn chánh đúng chánh pháp. Cũng vì do thời duyên mà các nhà tu hành là phương tiện không hành trì Khất thực qua sự mà nói hành Khất thực qua lý là thọ nhận vật cúng tại trú xứ nên ngày nay không còn duy trì qua sự của hành trì pháp Khất thực đúng pháp nữa và do thay đổi hình thức hoằng hóa và hành pháp mà hình ảnh Khất thực hóa duyên của các vị không được phổ biến cho nhiều người và bá tánh cúng dường đúng pháp nữa. Chính từ đó đã làm cho nhiều người Khất thực giả xuất hiện. Và để cho hình ảnh Khất thực này được duy trì và đúng pháp tạo điều kiện cho người tu hành nhẹ nhàng rảnh rang trong tu hành và bá tánh cũng thực hiện đúng pháp, thì Giáo hội và những nhà tu hành có trách nhiệm nên tạo điều kiện để cho pháp Khất thực này được lan rộng và bền lâu.

                                           Ảnh khóa tu truyền thống Khất sĩ lần thứ 16
2.      Hình ảnh khất thực sóng động từ ba đời chư Phật và đến thời Tổ sư Minh Đăng Quang đã thu hút số lượng đông tín đồ và quần chúng
         Hình ảnh sóng động này đẹp không phải đẹp về nghệ thuật hình tướng về những tấm hình ghi lại qua tranh ảnh mà đẹp về giá trị đạo đức thanh thoát và toát lên vẻ từ bi và trí tuệ của bậc tu hành giải thoát. Từ những sáng sớm nhưng bước chân đã từng tự đi vào những con làng, ngỏ hẽm của đường quê, nông thôn tỏa ra một hình ảnh vàng rực của màu y giải thoát, đã làm cho nhiều người cảm động và dâng trào.
       Hình ảnh Khất thực ngày thời Phật đã thể hiện một hình ảnh đầy giá trị và cảm xúc qua Tôn giả Ca diếp: Ngài Ca-diếp, người anh cả của giáo đoàn thời Phật, nổi tiếng là nhà khổ hạnh, khi được hỏi về giá trị của khất thực đã xác quyết rằng sống hạnh khất thực sẽ giúp hành giả chuyển hoá lòng tham đắm, thấy sự nguy hại trong các dục và không rơi vào tình huống phạm tội, nhờ đó, hướng đến đời sống trí tuệ. Nhờ hành khất thực, người xuất gia sống trong hạnh phúc của viễn ly.  Ngài đã cảm tác bài thơ nói về bản chất của khất thực như sau:
Mỗi buổi sáng ôm bình đi khất thực.
Độ tín thí không phân chia sang cực.
Được vật ngon hay được vật thô sơ.
Ăn để sống tu cuộc đời trong sạch!

Của bá tánh không nhận nhiều giữ cất,
Qua ngày mai hay lưu lại về sau.
Từng miếng cơm nhai tâm tịnh nguyện cầu,
Cho nhân loại trầm luân mau thoát khổ!
         Đến đầu những thập niêm 40 tại Miền Nam xứ Nam Việt đã xuất hiện những đoàn du Tăng Khất sĩ của Đức Tổ Sư Minh Đăng Quang đi trì bình khất thực hóa duyên vào những con làng của Sài Gòn. Những nơi nào các vị đi qua đều thu hút một số lượng lớn Tín đồ Phật tử theo xuất gia và tu học, có những vị còn hiến đất cúng làm chỗ cho chư Tăng trú ngụ để tu học. Qua chất liệu của giới, định, tuệ đó là thân chứng, chính do đời sống thanh bần, đơn giản, phạm hạnh của người tu giác ngộ giải thoát, một hình ảnh trang nghiêm…đã làm thu hút một lượng quần chúng xã hội  đến tu học rất đông, đem lại an lạc lợi lạc cho quần chúng và xã hội ngày một đông và chất lượng. Các vị dùng thân giáo để duy trì hình thức hoằng pháp và bằng tâm thanh tịnh và từ bi để trải rộng lòng từ đến chúng sanh, cho chúng sanh có được an lạc giải thoát.
Đây là phần quan trọng tác giả chú trọng để nói lên hình ảnh đẹp của Tăng đoàn, nhờ hình ảnh Tăng đoàn đã tái hiện là thời kỳ chánh pháp, một Tam bảo thường trụ, thể hiện một đời sống các vị xuất gia giải thoát luôn sống trong giới định tuệ. Sở dĩ đối với pháp Khất thực này lại được thu hút một số lượng lớn ngay thời còn Phật tại thế là do đi đúng chánh pháp của ba đời chư Phật. Một hình ảnh luôn tỏ vẻ của vị thoát trần Thượng sĩ, nên mỗi vị đệ tử của Phật là những bậc cao thượng có đầy đủ giới, định và tuệ. Khi đức Phật thành đạo Ngài đã độ những vị đệ tử đầu tiên và chỉ dạy căn dặn cho các đệ tử hãy ra đi mỗi người một phương hướng, hai người không thể đi cùng một con đường, các vị hãy ra đi vì hạnh phúc cho đời, vì an lạc cho đời vì hạnh phúc và an lạc cho chư thiên và loài trời người.
Nhờ phương pháp khất thực xa lìa sự xa hoa, người xuất gia có cơ hội thoát khỏi đời sống hưởng thụ các dục.  Một vị tỳ-kheo trẻ thời Phật khi được một thiên nhân dụ dỗ từ bỏ đời sống khất thực, để hưởng thụ các khoái lạc giác quan, đã trả lời rằng: “Không hưởng thụ, ta sống khất thực/ Hành khất thực không uổng phí thời gian.” Thiết lập chánh niệm trong khất thực là cách loại bỏ nỗi khổ niềm đau. Việc làm như vậy chẳng những không uổng ích thời gian, mà còn làm cho thời gian tu tập trở nên có ý nghĩa hơn nhiều.[4]
Và là hình ảnh thực tế tạo một thân tướng của bậc mô phạm để giáo dục con người sống theo đời sống có đạo đức và thánh thiện an lạc giải thoát, làm bài học gương sáng cho người noi theo. Đã tạo duyên phước là mảnh ruộng phước điền để cho người gieo tạo các công đức tu hành, hình ảnh tạo mảnh ruộng qua tấm y có những thửa ruộng, có một lần Phật cùng các đệ tử đi Khất thực hóa duyên đến những mảnh ruộng của các nông phu đang canh tác thì những người làm nông lại thốt lên rằng: chúng tôi là những người làm lụn cực nhọc mới có ăn, còn đệ tử của Cồ Đàm không có làm gì hết mà muốn hưởng thụ. Lúc này Phật là khởi lên và giáo hóa cho những nông dân này qua bài kinh Cày Ruộng.

3.      Kết luận
        Khi xã hội càng phát triển, nhu cầu vật chất cao, vấn đề đạo đức và đời sống tu tập đúng pháp là bị mai một theo thời gian, khi đạo đức tâm linh giảm xuống thì giới luật hay điều lệ nội qui và pháp luật được đặt ra, nhờ đó những nhà tu hành ý thức đời sống và sẵn sàng duy trì pháp Khất thực ngày một nghiêm túc đúng pháp và luật, thì người dã mạo hay giả danh không còn cơ hội để làm ô nhiễm nữa. Bên cạnh những người hộ trì và cúng dường nên hợp tác cùng Phật giáo để cúng dường đúng pháp nhằm tránh người khất thực nhận tiền và giả mạo người khất thực.
        Và ngày nay để người xuất gia dù có đi hay không đi Khất thực mà vẫn đoạn trừ được ngũ dục khi tiếp xúc và thọ nhận rất nhiều vật chất cuộc sống này, thì mỗi hành giả phải luôn có chánh niệm và có đời sống đúng theo chánh pháp, ý thức việc tu tập giải thoát để không dính mắt tham đắm, ái nhiễm hệ lụy vào các pháp hữu vi này để ngày ngày đời sống Tăng đoàn Khất sĩ được thanh tịnh lớn mạnh hơn và Phật tử tạo niềm kính tin đến ba ngôi Tam bảo đúng đắn hơn.
















[1] Khất thực chánh pháp, Thích Nhật Từ
[2] Ý Nghĩa Hạnh Trì Bình Khất Thực của nhà Phật
[3] Khất thực-Nét đẹp văn hóa phum, sóc
[4] Khất thực chánh pháp, Thích Nhật Từ

Thứ Ba, 18 tháng 9, 2012

Niệm Phật trong tạp niệm- Thích Phổ Huân

Người niệm Phật là người cất bước trên con đường về Cực Lạc. Không luận là niệm nhiều hay ít, tán tâm hay nhất tâm. Hễ có niệm Phật là có chủng tử Phật, không sớm thì muộn cũng về đất Phật. Tuy nhiên điều quan trọng nhất của niệm Phật là có lòng tin. Tin Phật Thích Ca không bao giờ nói dối. Tin Phật A Di Đà sẽ tiếp dẫn và tin mình sẽ được vãng sanh. Ch
ỉ cần đủ niềm tin như vậy một cách vững vàng kiên cố thì bước đi đến Cực Lạc chắc chắn phải tới.
Niệm là cất bước đi, tin là phương tiện giúp cho việc đi mau tới. Riêng về tán tâm niệm Phật cũng đừng lo ngại chi cả, vì có ai lại biết được là mình nhất tâm, nếu biết mình đang nhất tâm niệm Phật thì cái biết này đã là tán tâm rồi. Cho nên có thể hiểu nhất tâm niệm Phật là giờ phút chót của đoạn đường đến Cực Lạc.
Nhưng nói vậy không có nghĩa là ta không có được giây phút nhất tâm nào lúc đang niệm Phật. Dĩ nhiên là phải có, mà có đây cũng được xem như không, vì đã nói khi biết được nhất tâm là đã có sự động (biết) trong khi niệm Phật rồi. Thành ra có nhất tâm hay không điều này ta đừng lo ngại.
Cái lo ngại nhất của người niệm Phật là quên niệm Phật. Khi ta quên niệm Phật thì ngay lúc đó ta đã dừng lại bước đi tới hướng về Cực Lạc, mà đứng lại cũng còn may mắn chỉ sợ ta bị đẩy lùi nữa là khác. Người ta thường nói không tiến ắt phải lùi nghĩa là vậy. Những hình ảnh tư tưởng tham vọng, sân hận là sức đẩy xô ta lùi lại sau. Sức đẩy của chúng có thể mạnh hơn câu niệm Phật nếu ta niệm lơ là biếng trễ.
Chúng ta cũng đừng lo ngại rằng niệm Phật xen vào công việc giao tế sinh hoạt, ăn uống, vệ sinh là bất kính. Trong hoàn cảnh vậy, đây mới là sự niệm Phật chí thành tinh tấn, bởi đó chứng tỏ định lực nhớ ghi của ta đã vững vàng. Hơn nữa niệm Phật là niệm cái tánh giác Phật tánh của mình thì việc khắc ghi mãi tánh giác ấy vẫn hợp với Phật pháp. Và hẳn nhiên trong tình huống như thế không thể nào niệm ra tiếng được, mà chỉ nhớ ghi thôi. Nhớ rằng ta đang biết câu niệm Phật trong đầu đang tuôn chảy. Do vậy nếu có lo ngại là lo ta có thường nhớ câu niệm Phật hay không?
Với công việc lao động bằng tay chân thì còn dễ niệm, chớ việc làm tính toán nghĩ suy bằng trí óc hay vào những lúc hầu chuyện với người làm sao niệm được! Trường hợp như thế ta phải giải quyết hoàn tất công việc đó, nhưng cố gắng làm sao trở về với câu niệm Phật được lúc nào hay lúc đó. Đây không phải là điều gượng gạo phân tâm, khó xử mà là phương tiện luyện tâm niệm Phật vậy.
Trong cuộc sống hằng ngày tâm niệm của ta thường lăng xăng chạy theo muôn chuyện, đầu óc chẳng bao giờ muốn ngừng nghỉ, bởi vậy mỗi câu niệm Phật hay bị xen vào những tạp niệm. Nhưng thử nghĩ nếu ta không niệm ngay lúc này mà đợi đúng giờ đúng khắc trì kinh mới niệm thì làm sao định lực niệm Phật có đủ sức để trừ khử tạp niệm ngày càng dung dưỡng trong ta. Chẳng nói gì ngoài giờ tụng kinh lễ Phật mà ngay luôn giờ phút trang nghiêm thanh tịnh trước bàn Phật tạp niệm vẫn tấn công vào. Việc này cho ta thấy, là ta đã quá xem thường tạp niệm, nên dễ duôi, tự do cho nó vào ra thoải mái. Hay đúng hơn là ta đã không thực tập niệm Phật ngay trong tạp niệm. Nếu ta thực sự không ngại gì niệm Phật trong lúc bận bịu, rộn ràng, lúc đi, đứng, nằm, ngồi, ăn uống, làm việc, tiếp chuyện v.v… mỗi mỗi giây phút niệm Phật, có mặt trong giờ phút vừa thức dậy đi vào cuộc sống, cho đến đặt lưng xuống ngủ, kể cả đến lúc nhắm mắt ngủ quên mới thôi, thì ta có lo gì tạp niệm nổi lên trong giờ phút trì kinh trước điện Phật.
Hay dù cho tạp niệm có nóng lên trong lúc trang nghiêm đó, thì cũng chỉ tồn tại trong khoảnh khắc rồi sẽ biến mất đi. Bởi đó là do ta có thực tập, sẵn sàng ứng phó với tạp niệm, và vậy không còn lo lắng. Thế là ta trở về với lời kinh tiếng kệ một cách dễ dàng.
Chúng ta có thể đồng ý rằng còn sống là còn có tạp niệm. Vì tạp niệm là do duyên căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) tiếp xúc với cảnh trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) tạo ra bao hành động của thân và tâm. Bằng hình thức này, mức độ kia bất cứ người nào trong xã hội vẫn không trốn chạy được tạp niệm, tuy vậy chúng ta cũng thấy có tạp niệm con người mới có phân biệt điều tốt việc xấu, và như không có phân biệt, thì làm sao con người phát triển được những tư duy. Các vị Thánh, Tổ ban sơ cũng từ tạp niệm mà cuối cùng đi dần đến nhất niệm, cũng như mượn phương tiện trở về cứu cánh. Vậy thì niệm Phật trong tạp niệm vẫn là một việc rất quý, khó hành, huống chi muốn có nhất niệm phải từ tạp niệm mà ra, chỉ sợ là, ta có niệm được trong lúc tạp niệm hay không! Hay suốt đời sống chìm trong tạp niệm.
Nói rõ lại con đường đi đến Cực Lạc trước sau gì cũng hiển lộ rõ ràng trước mắt người niệm Phật. Và phương tiện để đưa hành giả niệm Phật đến đích mau hay chậm, chắc chắn hay không là do sức niệm Phật của hành giả. Cuối cùng thì niệm Phật muốn được nhất tâm thì phải niệm ngay trong tạp niệm.
Tinhdo.net
Nam mô A Di Đà Phật _()_

Chủ Nhật, 16 tháng 9, 2012

Pháp Môn Thoát Sanh Tử Trong Một Đời

Khắp mười phương thế giới, đại khái chỉ có hai phân vức: Tịnh Độ và Uế Độ. Tịnh Độ là các cõi trong sạch trang nghiêm của Phật, một khi sanh về tất dứt hẳng phân đoạn sanh tử, sẽ lần chứng lên quả thánh. Uế Độ, là các cõi từ cảnh giới đến thân tâm của chúng sanh đều ô trược, loài hữu tình ở đó còn phải lên xuống trong sáu nẻo, chịu nỗi khổ luân hồi.
Loài người ở cảnh Ta Bà Uế Độ này, nếu chỉ tu ngũ giới thập thiện và các điều lành khác mà không niệm Phật, thì cùng Phật vô duyên. Vì không duyên với Phật, chủng tử vô lậu trong thức thứ tám thiếu cơ năng dẫn phát, nên dù có tu các nghiệp lành, nhiều lắm cũng chỉ sanh lên cõi trời, không được về Tịnh Độ. Thọ số ở các cõi trời tuy lâu, nhưng vẫn có hạn lượng, khi phước báo hết là dứt một đoạn sống chết, rồi tùy nghiệp thọ sanh nơi khác. Nếu như vẫn còn nghiệp lành thuộc thượng phẩm thập thiện, lại tùy sanh ở các cõi trời thấp hoặc cao. Nghiệp trung phẩm thập thiện, sanh về cõi người. Nghiệp hạ phẩm thập thiện, sanh ở cõi A Tu La. Nếu là nghiệp dữ thuộc hạ phẩm thập ác, thì sa xuống loài bàng sanh. Nghiệp trung phẩm thập ác, sanh ở loài ngạ quỷ. Nghiệp thượng phẩm thập ác, đọa vào địa ngục.

Chúng sanh do ngã chấp làm gốc, từ nơi đó khởi tạo các nghiệp lành dữ thuộc sáu đường, nên tùy theo sự thành thục của mỗi loại chủng tử, phải chịu lên xuống luân hồi. Trong kiếp luân hồi, nghiệp nhiễm dễ tạo, duyên lành khó tu, nên thời gian đọa xuống ác đạo rất lâu dài, sanh lên thiên đạo rất ngắn ít. Đức Phật đã than: "Chúng sanh thường lấy ba ác đạo làm quê nhà!" Vì thế chúng ta có thể đoán định: "Tất cả loài hữu tình, nếu không về Tịnh Độ của chư Phật, tất phải ở Uế Độ. Đã ở Uế Độ, với hoàn cảnh xấu ác nhiều chướng duyên, với căn cơ người thời mạt tất sớm muộn cũng phải đọa ác đạo. Và, muốn sanh về Tịnh Độ của Phật, tất phải niệm Phật."

* Có kẻ gạn hỏi: "Đường lối giải thoát có nhiều môn, hà tất phải niệm Phật?" Điểm này nếu suy nghiệm sẽ tự hiểu, tuy nhiên cũng xin phúc đáp cho rõ hơn:

- Khi xưa đức Như Lai tuy diệt độ, nhưng chánh pháp còn thạnh, chúng sanh nghiệp nhẹ tâm thuần, nên dù tu pháp môn nào, cũng đều có thể thành tựu. Giảm xuống đến thời Tượng Pháp thì cách Phật đã xa, hoàn cảnh và nhơn tâm lần lần phức tạp, trăm ngàn người tu hành, hoặc may mới có một hai người đắc đạo. Huống nay lại đi sâu vào thời mạt pháp, đạo đức suy vi, bậc tu hành chân chánh còn có ít người, nói chi đến việc chứng quả? Bởi thời nay chúng sanh chướng nặng tâm tạp, sự sống và lối tổ chức xã hội khó khăn phiền toái hơn xưa. Lại thêm chiến tranh, đói rách, thiên tai nhơn họa thường thường tiếp diễn, cảnh khiêu dâm bắn giết được cổ xúy, tôn giáo đạo đức bị xem là trò ma túy, chuyện lỗi thời. Với nhiều chướng duyên trong và ngoài ảnh hưởng nhau như thế, nếu tự lực tu hành theo các pháp môn khác, tất nhiên khó bề thành tựu. Vả lại muốn thoát luân hồi, phải dứt trừ kiến hoặc và tư hoặc. Nhưng theo lời cổ đức: "Ngăn được kiến hoặc khó như ngăn chận dòng nước mạnh từ bốn mươi dặm xa chảy lại," huống chi là diệt trừ, và kế đến dứt cả tư hoặc ư? Cho nên trong thời mạt pháp, muốn được giải thoát, chỉ duy có Niệm Phật pháp môn. Bởi môn này đã dùng hết tự lực, còn nhờ thêm tha lực, dù nghiệp hoặc chưa dứt, cũng nhờ sức Phật tiếp dẫn mà được đới nghiệp vãng sanh. Khi đã về Cực Lạc, tất không còn thối chuyển vĩnh viễn thoát luân hồi.

Đức Thế Tôn là bậc bi trí sâu xa, về căn cơ thời mạt pháp và hiệu lực của môn Tịnh Độ, Ngài có huyền ký trước nơi Kinh Đại Tập và Vô Lượng Thọ, như chương thứ nhứt đã nói. Thế thì biết, trong thời mạt pháp, khi hiệu lực hiện chứng của các tông đều yếu kém, để kéo dài pháp vận và cứu độ chúng sanh, chỉ duy có môn Niệm Phật. Các tông khác như Thiền, Giáo, Luật, Mật tuy còn lưu truyền và có nhiều người tu, cũng chỉ ở trong khả năng giáng xuống làm trợ duyên, chớ không thể riêng rẽ sanh hiệu nghiệm trên đường giải thoát. Trong bức thơ gởi cho một vị tăng, Ấn Quang đại sư đã nói: "Ở sâu vào thời mạt pháp này, nếu tu theo các môn khác, nói đến sự gieo căn lành và làm nhân duyên đắc độ về sau thì có, nói đến sự chứng quả giải thoát trong đời hiện tại thì không."

Do những điều đã dẫn giải trên đây, ta có thể kết luận: "Ở vào thời mạt pháp, duy Niệm Phật mới là môn thoát sanh tử trong một đời."


(HT. Thích Thiền Tâm - Trích sách Niệm Phật Thập

Nhớ về ngày ấy

Tôi sinh ra tại một vùng quê kinh tế không quá triển mấy, nhưng đã cho tôi khôn lớn và đi học có nghề nhưng không đủ duyên để giữ tôi ở lại đi làm và sống cung người thân. Nhân dịp Vu lan về, tôi từ sài trở về quê để nghĩ hè nhưng tâm niệm muốn đi dự lễ Tự tứ tăng Vu Lan Bồn tại Tịnh Xá Ngọc Tường. Được biết lễ này được chư Tăng Khất sĩ thường tổ chức sau ngày an cư xong, chư Tăng tập trung về một nơi để Tự Tứ vào đêm 14 tháng 7 và hôm sau là ngày rằm chính thức Vu Lan, là ngày mà để tạo nhân duyên cho bá tánh  thập phương câu hội về dâng cúng đến Tam bảo và gieo giống vào ruộng phước điền của Chư Tăng hầu đem lại nhiều phước để hồi hướng cầu nguyện báo đáp công ơn của cha mẹ và thân bằng quyến thuộc đã quá vãng. Thật sự cũng có đủ duyên phước nên đã khởi lên ý niệm xuất gia khi nhìn thấy hình chư tăng và không khí buổi lễ trang nghiêm và long trọng làm tâm giác ngộ của tôi tỉnh thức sống dậy mặc dù ý định xuất gia đã có lâu có từ năm học cấp 2. một tâm trạng mà chỉ có nơi tôi mới biết với những hình ảnh lạ kỳ làm vấy khởi trong tâm thức, khiến tôi phải quyết định xuất gia mặc dù còn đang ở sài gòn xin việc nhưng lúc đó mọi ý niệm trong tâm tôi đều ngưng tất cả thậm chí có người điện thoại liên lạc tôi để nhận đi làm, chính do căn duyên đầy nên dù cho có ai cản trở đi nữa thì lòng chí quyết xuất gia không ngăn cản. chắc đây cũng có căn lành gieo vào tôi lúc còn nhỏ tôi đã được cha mẹ chở đi chùa, nhưng ý niệm tu hành và thích đi chùa lúc vẫn không có

Cây Chùm Ngây – Cây Thần Diệu – Cây Độ Sinh M o r i n g a O l e i f e r ay

    
TỔNG HỢP MỘT SỐ THÔNG TIN VỀ CÂY CHÙM NGÂY
(Moringa Oleifera)

I. TÊN VÀ NGUỒN GỐC:
• Tên thông dụng: Chùm ngây (VN), Moringa (international) , Drumstick tree (US), Horseradish tree, Behen, Drumstick Tree, Indian Horseradish, Noix de Bahen.
• Tên Khoa học: Moringa oleifera hay M. Pterygosperma thuộc họ Moringaceae
• Nhà Phật gọi là cây Độ Sinh (Tree of Life )
Các nhà dược học, các nhà khoa học nghiên cứu thực vật học, dựa vào hàm lượng dinh dưỡng và nguồn dược liệu quí hiếm được kiểm nghiệm, đã không ngần ngại đặt tên cho nó là cây Thần Diệu ( Miracle Tree) .
Nguồn gốc : Cây xuất xứ từ vùng Nam Á, có lịch sử hơn 4 ngàn năm ,nhưng phổ biến rất nhiều ở cả Châu Á và Châu Phi. Cây Chùm Ngây rất phổ thông ở Ấn Độ và được dân tộc Ấn trân trọng đặt tên là cây Độ Sinh

  
II. LỢI ÍCH , CÔNG DỤNG VÀ GIÁ TRỊ:
Lợi ích và công dụng :
Cây Chùm Ngây Moringa Oleifera hiện được 80 quốc gia trên thế giới , những quốc gia tiên tiến sử dụng rộng rãi và đa dạng trong công nghệ dược phẩm, mỹ phẩm, nước giải khát dinh dưỡng và thực phẩm chức năng. Các quốc gia đang phát triển sử dụng Moringa như dược liệu kỳ diệu kết hợp chữa những bịnh hiểm nghèo, bệnh thông thường và thực phẩm dinh dưỡng.
Các bộ phận của cây chứa nhiều khoáng chất quan trọng, và là một nguồn cung cấp chất đạm, vitamins, beta-carotene, acid amin và nhiều hợp chất phenolics. Cây Chùm Ngây cung cấp một hỗn hợp pha trộn nhiều hợp chất như zeatin, quercetin, beta-sitosterol caffeoylquinic acid và kaempferol, rất hiếm gặp tại các loài cây khác.
Điều Trị :. Các bộ phận của cây như lá, rễ, hạt, vỏ cây, quả và hoa.. có những hoạt tính như kích thích hoạt động của tim và hệ tuần hoàn, hoạt tính chống u-bướu, hạ nhiệt, chống kinh phong, chống sưng viêm, trị ung loét, chống co giật, lợi tiểu, hạ huyết áp, hạ cholesterol, chống oxy-hóa, trị tiểu đường, bảo vệ gan, kháng sinh và chống nấm.. Cây đã được dùng để trị nhiều bệnh trong Y-học dân gian tại nhiều nước trong vùng Nam Á. (Phytotherapy Research Số 21-2007).
Dinh Dưỡng: Lá moringa giàu dinh dưỡng hiện được hai tổ chức thế giới WHO và FAO xem như là giải pháp ưu việt cho các bà mẹ thiếu sữa và trẻ em suy dinh dưỡng, và là giải pháp lương thực cho thế giới thứ ba.
• Đối với trẻ em từ 1-3 tuổi, cứ ăn 20gr lá tươi moringa là cung ứng 90% Calcium , 100% Vitamin C, Vitamin A, 15% chat sat, 10% chất đạm cần thiết và hàm luợng Potassium , Đồng, …vàVitamin B bổ sung cần thiết cho trẻ .
• Đối với các bà mẹ đang mang thai và cho con bú, chi cần dùng 100gr lá tươi mỗi ngày là đủ bổ sung Calcium , Vitamin C, VitaminA ,Sắt , Đồng, Magnesium, Sulfur, các vitamin B cần thiết trong ngày. : (nguồn : http://www.moringatree.co.za/analysis.html)
Cách dùng : Rau sống: lá tươi dùng trộn ăn sống như rau xà lách_ Nước sinh tố : xay 20gr lá chung với 2 muỗng cafe sữa, 2 muỗng café đường sữa uống như uống sinh tố_Nấu canh : 100gr lá moringa nấu chung với 50gr thịt bò hoặc heo , hoặc nấu chay với 100gr nấm.
Dưỡng da : tại Mỹ và các nước Âu châu, cây Moringa được sử dụng rộng rãi trong công nghê dưỡng da , mỹ phẩm cao cấp.
Cáh dùng đơn giản: các bà các cô có thể áp dụng ngay: giã nhuyễn 20gr lá, để không hoăc trộn với dầu lấy từ hat Moringa thoa đắp 2 lần, mỗi lần 7 phút, trong một ngày , trong một tuần sẽ thấy hiệu nghiệm. (kinh nghiệm)
( lưu ý : không nên ủ đắp trên da mặt quá lâu trên 10 phút )
Lọc nước : Hạt Chùm Ngây có chứa một số hợp chất “đa điện giải” (polyelectrolytes) tự nhiên có thể dùng làm chất kết tủa để làm trong nước.Kết quả thử nghiệm lọc nước : Nước đục (độ đục 15-25 NTU, chứa các vi khuẩn tạp 280-500 cfu ml(-1), khuẩn coli từ phân 280-500 MPN 100 ml(-1). Dùng hạt Chùm Ngây làm chất tạo trầm lắng và kết tụ, đưa đến kết quả rất tốt (độ đục còn 0.3-1.5 NTU; vi khuẩn tạp còn 5-20 cfu; và khuẩn coli còn 5-10 MPN..) Phương pháp lọc này rất hữu dụng tại các vùng nông thôn của các nước nghèo..và được áp dụng khá rộng rãi tại Ấn độ (Journal of Water and Health Số 3-2005).
III. GIAI ĐOẠN ƯƠM TRỒNG CỦA MORINGA TỪ HẠT GIỐNG:
  
IV. ĐẶC TÍNH THỰC VẬT:
Cây thuộc loại đại mộc, có thể mọc cao 5 đến10m. Lá kép (có thể đến 3 lần= triple-pinnate) dài 30 - 60 cm, hình lông chim, màu xanh mốc; lá chét dài 12 - 20 mm hình trứng, mọc đối có 6 - 9 đôi. Hoa trắng, có cuống, hình dạng giống hoa đậu, mọc thành chùy ở nách lá, có lông tơ. Quả dạng nang treo, dài 25 - 30cm, ngang 2 cm, có 3 cạnh, chỗ có hạt hơi gồ lên, dọc theo quả có khía rãnh. Hạt màu đen, tròn có 3 cạnh, lớn cỡ hạt đậu Hòa Lan. Cây trổ hoa vào các tháng 1 – 2.
• Thành phần hóa học: Rễ chứa: Glucosinolates như 4-(alpha-L-rhamnosyloxy)benzyl glucosinolate (chừng 1%) sau khi chịu tác động của myrosinase, sẽ cho 4-(alpha-L-rhamnosyloxy)benzyl isothiocyanate. Glucotropaeolin (chừng 0.05%) sẽ cho benzylisothiocyanate.
Hạt chứa: Glucosinolates ( như trong rễ) : có thể lên đến 9% sau khi hạt đã được khử chất béo.Các acid loại phenol carboxylic như 1-beta-D-glucosyl-2,6-dimethyl benzoate.Dầu béo (20-50%) : phần chính gồm các acid béo như oleic acid (60-70%), palmitic acid (3-12%), stearic acid (3-12%) và các acid béo khác như behenic acid, eicosanoic và lignoceric acid..
Lá chứa: Các hợp chất loại flanonoids và phenolic như kaempferol 3-O-alpha-rhamnoside, kaempferol, syringic acid, gallic acid, rutin, quercetin 3-O-beta-glucoside. Các flavonol glycosides được xác định đều thuộc nhóm kaempferide nối kết với các rhamnoside hay glucoside.
V. THÀNH PHẦN DINH DƯỠNG:
Bảng phân tích hàm lượng dinh dưỡng của quả, lá tươi và bột khô của lá cây Chùm Ngây theo báo cáo ngày 17/7/1998 của Campden and Chorleywood Food Research Association in Conjunction.
BẢNG PHÂN TÍCH HÀM LƯỢNG DINH DƯỠNG CỦA MORINGA
STT
THÀNH PHẦN DINH DƯỠNG/100gr
TRÁI TƯƠI
LÁ TƯƠI
BỘT LÁ KHÔ
01 Water ( nước ) %
86,9 %
75,0 %
7,5 %
02 calories
26
92
205
03 Protein ( g )
2,5
6,7
27,1
04 Fat ( g ) ( chất béo )
0,1
1,7
2,3
05 Carbohydrate ( g )
3,7
13,4
38,2
06 Fiber ( g ) ( chất xơ )
4,8
0,9
19,2
07 Minerals ( g ) ( chất khoáng )
2,0
2,3
_
08 Ca ( mg )
30
440
2003
09 Mg ( mg )
24
25
368
10 P ( mg )
110
70
204
11 K ( mg )
259
259
1324
12 Cu ( mg )
3,1
1,1
0,054
13 Fe ( mg )
5,3
7,0
28,2
14 S ( g )
137
137
870
15 Oxalic acid ( mg )
10
101
1,6
16 Vitamin A - Beta Carotene ( mg )
0,11
6,8
1,6
17 Vitamin B - choline ( mg )
423
423
-
18 Vitamin B1 - thiamin ( mg )
0,05
0,21
2,64
19 Vitamin B2 - Riboflavin ( mg )
0,07
0,05
20,5
20 Vitamin B3 - nicotinic acid ( mg )
0,2
0,8
8,2
21 Vitamin C - ascorbic acid ( mg )
120
220
17,3
22 Vitamin E - tocopherol acetate
-
-
113
23 Arginine ( g/16gN )
3,66
6,0
1,33 %
24 Histidine ( g/16gN )
1,1
2,1
0,61%
25 Lysine ( g/16gN )
1,5
4,3
1,32%
26 Tryptophan ( g/16gN )
0,8
1,9
0,43%
27 Phenylanaline ( g/16gN )
4,3
6,4
1,39 %
28 Methionine ( g/16gN )
1,4
2,0
0,35%
29 Threonine ( g/16gN )
3,9
4,9
1,19 %
30 Leucine ( g/16gN )
6,5
9,3
1,95%
31 Isoleucine ( g/16gN )
4,4
6,3
0,83%
32 Valine ( g/16gN )
5,4
7,1
1,06%
http://www.moringatree.co.za/analysis.html


VI. SO SÁNH HÀM LƯỢNG DINH DƯỠNG:
BẢNG SO SÁNH CHẤT DINH DƯỠNG TRONG MỖI 100GR LÁ CHÙM NGÂY TƯƠI & KHÔ : (nguồn : http://www.moringatree.co.za/analysis.html)
BẢNG SO SÁNH CHẤT DINH DƯỠNG
(Theo tư liệu tổng hợp mới nhất về cây Chùm Ngây của ZijaMoringaHealth.Com )
Cây Chùm Ngây (Moringa oleifera) chứa hơn 90 chất dinh dưỡng tổng hợp. Những chất dinh dưỡng cần thiết để gìn giữ sức khỏe con người , chống giảm nguy cơ từ những chứng bệnh suy thoái, chữa trị bách bệnh thông thường. Những hình ảnh minh họa dưới đây là bảng so sánh từ các nghiên cứu của các nhà khoa học giữa hàm lượng dinh dưỡng ưu việt của lá cây Chùm Ngây và những thực phẩm , những trái cây tiêu biểu thường dùng như Cam, Cà-rốt, Sữa, Cải Bó xôi, Yaourt, và chuối nếu so sánh trên cùng trọng lượng:
 
  • Vitamin C 7 lần nhiều hơn trái Cam
Vitamin C tăng cường hệ thống miễn nhiễm trong cơ thể và chữa trị những chứng bệnh lây lan như cảm cúm.
  • Vitamin A 4 lần nhiều hơn Cà-rốt
Vitamin A hoạt động như một tấm khiên chống lại những chứng bệnh về mắt , da và tim , đồng thời ngăn ngừa tiêu chảy và những chứng bệnh thông thường khác..
  • Calcium 4 lần nhiều hơn sữa
Calcium bồi bổ cho xương và răng, giúp ngăn ngừa chứng loãng xương..
  • Chất sắt 3 lần so với cải bó xôi
Chất Sắt là một chất cần thiết đóng vai trò quan trọng trong việc truyền dẫn Oxy trong máu đến tất cả bộ phận trong cơ thể..
  • Chất đạm (protein) 2 lần nhiều hơn Ya-ua
Chất Đạm là những chất xây dựng tế bào cho cơ thể, nó được làm ra từ at-xit A-min, thông thường at-xit A-min chỉ có những sản phẩm từ động vật như thịt trứng, sữa… kỳ lạ thay lá Chùm Ngây có chứa những At-xít Amin cần thiết đó.
  • Potassium 3 lần nhiều hơn trái chuối
Potassium là chất cần thiết cho óc và hệ thần kinh .
BẢNG SO SÁNH CHẤT DINH DƯỠNG ( nguồn khác):
nutrtional charts
VII. NHỮNG NGHIÊN CỨU KHOA HOC VỀ CÂY CHÙM NGÂY :
Chùm Ngây được xem là một cây đa dụng, rất hữu ích tại những quốc gia nghèo thuộc “Thế giới thứ ba” nên đã được nghiên cứu khá nhiều về các hoạt tính dược dụng, giá trị dinh dưỡng và công nghiệp. Đa số các nghiên cứu được thực hiện tại Ấn Độ, Philippines, và Phi Châu..
Tính cách đa dụng của Moringa oleifera:
Nghiên cứu rộng rãi nhất về giá trị của Moringa oleifera được thực hiện tại ĐH Nông Nghiệp Falsalabad, Pakistan :
Moringa oleifera Lam (Moringaceae) là một cây có giá trị kinh tế cao, cây phân bố tại nhiều quốc gia nhiệt đới và cận nhiệt đới. Cây vừa là một nguồn dược liệu và là một nguồn thực phẩm rất tốt. Các bộ phận của cây chứa nhiều khoáng chất quan trọng, và là một nguồn cung cấp chất đạm, vitamins, beta-carotene, acid amin và nhiều hợp chất phenolics…
Hoạt tính kháng nấm gây bệnh:
Nghiên cứu tại Institute of Bioagricultural Sciences, Academia Sinica, Đài Bắc (Taiwan) ghi nhận dịch chiết từ lá và hạt Chùm Ngây bằng ethanol có các hoạt tính diệt được nấm gây bệnh loại Trichophyton rubrum, Trichophyton mentagrophytes, Epidermophyton floccosum và Microsporum canis. Các phân tích hóa học đã tìm được trong dầu trích từ lá Chùm Ngây đến 44 hóa chất. (Bioresource Technology Số 98-2007).
Tác dụng của quả Chùm Ngây trên cholesterol và lipid trong máu:
Nghiên cứu tại ĐH Baroda, Kalabhavan, Gujarat (Ấn Độ) về hoạt tính trên các thông số lipid của quả Chùm Ngây, thử trên thỏ, ghi nhận : Thỏ cho ăn Chùm Ngây (200mg/kg mỗi ngày) hay uống lovastatin (6mg/kg/ ngày) trộn trong một hổn hợp thực phẩm có tính cách tạo cholestero cao, thử nghiệm kéo dài 120 ngày. Kết quả cho thấy Chùm Ngây và Lovastatin có tác dụng gây hạ cholesterol, phospholipid, triglyceride, VLDL, LDL hạ tỷ số cholesterol/ phospholipid trong máu..so với thỏ trong nhóm đối chứng. Khi cho thỏ bình thường dùng Chùm Ngây hay Lovastatin : mức HDL lại giảm hạ nhưng nếu thỏ bị cao cholesterol thì mức HDL lại gia tăng. Riêng Chùm Ngây còn có thêm tác dụng làm tăng sự thải loại cholesterol qua phân (Journal of Ethnopharmacology Số 86-2003).
Các hoạt tính chống co-giật, chống sưng và gây lợi tiểu :
Dịch trích bằng nước nóng của hoa, lá, rễ, hạt..vỏ thân Chùm Ngây đã được nghiên cứu tại Trung Tâm Nghiên cứu Kỹ Thuật (CEMAT) tại Guatamala City về các hoạt tính dược học, thử nơi chuột. Hoạt tính chống co giật được chứng minh bằng thử nghiệm trên chuột đã cô lập, hoạt tính chống sưng thử trên chân chuột bị gây phù bằng carrageenan và tác dụng lợi tiểu bằng lượng nước tiểu thu được khi chuột được nuôi nhốt trong lồng. Nước trích từ hạt cho thấy tác động ức chế khá rõ sự co giật gây ra bởi acetylcholine ở liều ED50= 65.6 mg/ml môi trường ; tác động ức chế phụ gây ra do carrageenan được định ở 1000mg/kg và hoạt tính lợi tiểu cũng ở 1000 mg/kg. Nước trích từ Rễ cũng cho một số kết quả (Journal of Ethnopharmacology Số 36-1992).
Các chất gây đột biến genes từ hạt Chùm ngây rang chín :
Một số các hợp chất các chất gây đột biến genes đã được tìm thấy trong hạt Chùm Ngây rang chín : Các chất quan trọng nhất được xác định là 4 (alpha Lrhamnosyloxy) phenylacetonitrile; 4 - hydroxyphenylacetonitri le và 4 - hydroxyphenyl-acetamide. (Mutation Research Số 224-1989).
Khả năng ngừa thai của Rễ Chùm Ngây :
Nghiên cứu tại ĐH Jiwaji, Gwalior (Ấn độ) về các hoạt tính estrogenic, kháng estrogenic, ngừa thai của nước chiết từ Rễ Chùm Ngây ghi nhận chuột đã bị cắt buồng trứng, cho uống nước chiết, có sự gia tăng trọng lượng của tử cung. Hoạt tính estrogenic được chứng minh bằng sự kích thích hoạt động mô tế bào tử cung.
Khi cho chuột uống nước chiết này chung với estradiol dipropionate (EDP) thì có sự tiếp nối tụt giảm trọng lượng của tử cung so sánh với sự gia tăng trọng lượng khi chỉ cho chuột uống riêng EDP. Trong thử nghiệm deciduoma liều cao nhất 600mg/kg có tác động gây rối loạn sự tạo deciduoma nơi 50 % số chuột thử . Tác dụng ngừa thai của Rễ Chùm Ngây được cho là do nhiều yếu tố phối hợp (Journal of Ethnopharmacology Số 22-1988).
• Hoạt tính kháng sinh của Hạt Chùm Ngây :
4 (alpha-L-Rhamnosyloxy)benzyl isothiocyanate được xác định là có hoạt tính kháng sinh mạnh nhất trong các hoạt chất trích từ hạt Chùm Ngây ( trong hạt Chùm Ngây còn có benzyl isothiocyanate). Hợp chất trên ức chế sự tăng trưởng của nhiều vi khuẩn và nấm gây bệnh. Nồng độ tối thiểu để ức chế Bacillus subtilis là 56 micromol/l và để ức chế Mycobacterium phlei là 40 micromol/l (Planta Medica Số 42-1981).
Hoạt tính của Rễ Chùm ngây trên Sạn thận loại Oxalate :
Thử nghiệm tại ĐH Dược K.L.E.S, Nehru Nagar, Karnakata (Ấn Độ) trên chuột bị gây sạn thận, oxalate bằng ethylen glycol ghi nhận dịch chiết bằng nước và alcohol rễ cùng lõi gỗ Chùm Ngây làm giảm rõ rệt nồng độ oxalate trong nước tiểu bằng cách can thiệp vào sự tổng hợp oxalate trong cơ thể. Sự kết đọng tạo sạn trong thận cũng giảm rất rõ khi cho chuột dùng dịch chiết này như một biện pháp phòng ngừa bệnh sạn thận .
Dùng hạt Chùm ngây để lọc nước :
Hạt Chùm Ngây có chứa một số hợp chất “đa điện giải” (polyelectrolytes) tự nhiên có thể dùng làm chất kết tủa để làm trong nước.Kết quả thử nghiệm lọc nước : Nước đục (độ đục 15-25 NTU, chứa các vi khuẩn tạp 280-500 cfu ml(-1), khuẩn coli từ phân 280-500 MPN 100 ml(-1). Dùng hạt Chùm Ngây làm chất tạo trầm lắng và kết tụ, đưa đến kết quả rất tốt (độ đục còn 0.3-1.5 NTU; vi khuẩn tạp còn 5-20 cfu; và khuẩn coli còn 5-10 MPN..) Phương pháp lọc này rất hữu dụng tại các vùng nông thôn của các nước nghèo..và được áp dụng khá rộng rãi tại Ấn độ (Journal of Water and Health Số 3-2005).

VIII. CÔNG DỤNG CỦA CÂY CHÙM NGÂY TRÊN THẾ GIỚI:
• Mỹ hiện nay là nước nhập nguyên liệu Moringa thô nhiều nhất, sử dụng trong công nghê mỹ phẩm cao cấp, nước uống và quan trong hơn là chiết suất thành nguyên liệu tinh cung ứng cho công nghiệp dược phẩm, hóa chất.
Ấn Độ: Chùm Ngây được gọi là sainjna, mungna (Hindi, Asam, Bengal..); Phạn ngữ: Shobhanjana.Là một trong những cây thuốc “dân gian” rất thông dụng tại Ấn Độ. Vỏ thân được dùng trị nóng sốt, đau bao tử, đau bụng khi có kinh, sâu răng, làm thuốc thoa trị hói tóc; trị đau trong cổ họng (dùng chung với hoa của cây nghệ, hạt tiêu đen, rễ củ Dioscorea oppositifolia); trị kinh phong (dùng chung với thuốc phiện); trị đau quanh cổ (thoa chung với căn hành của Melothria heterophylla, Cocci nia cordifolia, hạt mướp (Luffa) và hạt Lagenaria vulgaris); trị tiểu ra máu; trị thổ tả (dùng chung với vỏ thân Calotropis gigantea, Tiêu đen, và Chìa vôi. Hoa dùng làm thuốc bổ, lợi tiểu. Quả giã kỹ với gừng và lá Justicia gendarussa để làm thuốc đắp trị gẫy xương. Lá trị ốm còi, gây nôn và đau bụng khi có kinh. Hạt: dầu từ hạt để trị phong thấp.
Pakistan: Cây được gọi là Sajana, Sigru. Cũng như tại Ấn, Chùm Ngây được dùng rất nhiều để làm các phương thuốc trị bệnh trong dân gian. Ngoài các cách
sử dụng như tại Ấn độ, các thành phần của cây còn được dùng như : Lá giả nát đắp lên vết thương, trị sưng và nhọt, đắp và bọng dịch hoàn để trị sưng và sa; trộn với mật ong đắp lên mắt để trị mắt sưng đỏ.. Vỏ thân dùng để phá thai bằng cách đưa vào tử cung để gây giãn nở. Vỏ rễ dùng sắc lấy nước trị đau răng, đau tai..Rễ tươi của cây non dùng trị nóng sốt , phong thấp, gout, sưng gan và lá lách..Nhựa từ chồi non dùng chung với sữa trị nhức đầu, sưng răng..
Trung Mỹ: Hạt Chùm Ngây được dùng trị táo bón, mụn cóc và giun sán
Saudi Arabia : Hạt được dùng trị đau bụng, ăn không tiêu, nóng sốt, sưng tấy ngoài da, tiểu đường và đau thắt ngang hông.
Việt Nam : Rễ Chùm Ngây được cho là có tính kích thích, giúp lưu thông máu huyết, làm dễ tiêu hóa, tác dụng trên hệ thần kinh, làm dịu đau. Hoa có tính kích dục. Hạt làm giảm đau. Nhựa (gomme) từ thân có tác dụng làm dịu đau.
Liều lượng và các phản ứng phụ cần lưu ý:
Hiện nay chưa có những báo cáo về những nguy hại đối với sức khoẻ trong việc sử dụng Hạt và Rễ Chùm Ngây theo các liều lượng trị liệu. Tuy nhiên dùng liều quá cao có thể gây ra buồn nôn, chóng mặt và ói mửa.
Liều cho uống : 5gram/ kg trọng lượng cơ thể, thử trên chuột , gây phản ứng keratin hóa quá mức tế bào bao tử và sơ hóa tế bào gan.
Liều chích qua màng phúc toan 22 đến 50 mg/ kg trọng lượng cơ thể gây tử vong nơi chuột thử nghiệm.
Không nên dùng Rễ Chùm ngây nơi phụ nữ có thai, vì có khả năng gây trụy thai.
                                                                                  ( Nguồn:DS Trần Viết Hưng/ ĐH Cần Thơ)


IX. SẢN PHẨM TỪ CÂY CHÙM NGÂY ( Moringa Oleifera):

Sản phẩm làm đẹp (beauty body) của The Body Shop (USA)


Nước uống dinh dưỡng của Cty Zija (Zijamoringahealth.com, USA)

Sản phẩm bột và viên dinh dưỡng của Yelixir (India)

Viên Chùm Ngây Bột Chùm Ngây
Dầu và hạt Chùm Ngây (Alibaba.com)
Lá Chùm Ngây tươi bày bán ở chợ Manila (Philipin)
X. CÁCH ƯƠM TRỒNG CÂY CHÙM NGÂY ƯƠM : Có nhiều cách ươm
1. Cách 1: Ngâm hạt trong nước ấm 24 giờ, Hạt sau khi ngâm , vớt ra trộn với cát, ủ trong bao tải, hoặc rơm rạ mỗi ngày tưới một lần, 3 - 6 ngày sau hạt nẩy mầm, đem hạt ươm vào bao nhựa hoặc chậu nhựa chứa đất tơi xốp có khoét lỗ rút nước, tưới nước vừa đủ ẩm , tránh sũng nước, 3 - 5 ngày cây sẽ nhú lên, chờ từ 6 - 8 tuần cây khỏe, đem ra trồng.
2. Cách 2: Đầu tiên, pha nước: 2 sôi + 3 lạnh (nước ấm), ngâm hạt Chùm ngây trong 24 giờ. (Kích thích cho hạt chùm ngây qua thời kỳ nghỉ & nẩy mầm.) Lấy khăn bọc hạt Chùm ngây lại & để trong tối. – (Phải để trong tối. Vì ánh sáng khuyếch tán có lợi cho cây xanh, nhưng cưỡng bức quá trình nẩy mầm. Đặc biệt là thành phần quang phổ màu xanh trong phổ ánh sáng trắng.) Mỗi ngày, nhúng bọc Chùm ngây vào nước mưa, trở qua trở lại. Sau đó, vẩy nhẹ để đừng ứ nước bên trong. – Làm cẩn thận vì có thể làm hư mầm non bên trong!(Bổ sung nước cũng như tránh ẩm mốc cho hạt.) Vài ngày sau, hạt nẩy mầm. Đem ươm vào chậu hoặc bao ny lon có đất tơi xốp, lưu ý là cả chậu hoặc bao nylon đều cần khoét lổ để thoát nước.
3. Cách 3: dùng bao nylon hoặc chậu nhựa có lỗ thoát nước, đường kính khoảng 15cm-20cm và sâu chừng 25-30cm, đổ đất xốp vào, sau đó đặt hạt sâu khoảng 25 mi-li-met dưới lớp đất xốp, phủ và nén đất nhè nhẹ, tưới nước cầm chừng không để khô qúa hoặc ướt qúa. Sau chừng ba ngày hạt sẽ nẩy mầm, và cây sẽ ló ra khỏi mặt đất sau chừng 1 tuần, tiếp tục giữ ẩm không để qúa khô, và tuyệt đối không để sũng nước.
TRỒNG : Cây ươm trồng trong chậu hoặc bao nylon được 6 - 8 tuần lễ, đã đâm rễ và cây đã cứng cáp. Đào lỗ rộng gấp đôi và sâu gấp đôi chậu nhựa, mỗi lỗ đào cách nhau từ 1,5m - 2m. Cắt đáy, rạch hai bên,nếu được xé toạc lấy chậu và bao ra khỏi lỗ, lưu ý không để phạm vào rễ cái. Đổ một lớp đất xốp trước khi đặt chậu hoặc bao nylon xuống, cuối cùng là phủ, nén lớp đất xốp chung quanh và mặt trên, giữ ẩm 2 - 3 tuần cây sẽ sống khoẻ, đến lúc đó không cần phải thường xuyên tưới nước nữa. Nhiều nơi để chỉ thu hoạch lá và hoa người ta ươm trồng ngay trên luống đất xốp bằng cách ươm hạt sâu 25mm và cách nhau 40cm như trồng ớt trồng cà.
XI. HIỆU QUẢ KINH TẾ:
Hiệu quả kinh tế ở đây được hiểu là hiệu quả kinh tế của toàn xã hội, trong đó người có nhu cầu, ngay cả những nguời có thu nhập thấp nhất, dễ dàng mua cho mình một sản phẩm mới đáp ứng yêu cầu và người cung ứng sản phẩm, từ người nông dân trồng cây cho đến những nhà kinh doanh chế biến sản xuất có trong tay một thị trường nóng hổi và rộng mở.
  • Đầu ra
Làm gì? Xuất cho ai? Bán cho ai ? Ai bao tiêu sản phẩm? là câu hỏi đầu tiên và vô cùng thực tế của nông dân và của tất cả những người muốn đầu tư trồng cây chùm ngây. Câu hỏi còn bỏ ngỏ chưa có ai, chưa có cơ quan chức năng, chưa có nhà kinh doanh chế biến sản xuất nào trả lời dứt khoát rõ ràng, dẫu biết rằng cây chùm ngây hết sức phổ biến tại hơn 80 nước trên thế giới nó hiện diện trong bữa ăn hằng ngày, nó có từ chợ rau cải , cửa hàng thực phẩm dinh dưỡng, thực phẩm chức năng , được các nước Âu Mỹ dùng phổ biến trong công nghê dược phẩm, mỹ phẩm, được các nước Đông Á và Nam Á xem như thần dược trong kết hợp chữa trị những căn bệnh hiểm nghèo, thời đại, và phổ thông.
Dựa vào những thông tin, số liệu đầy hưng phấn trên, chúng ta có quyền nghĩ đến những phương án cung cầu rộng lớn đầy triển vọng cho Cây chùm ngây như phổ biến cây trồng rộng khắp , đưa cây chùm ngây vào công nghệ thực phẩm dinh dưỡng, thực phẩm chức năng, dược phẩm, mỹ phẩm… nhưng trước mắt , bằng vào cái suy nghĩ nông cạn của tôi, đầu ra cho người nông dân, người đầu tư trồng cây chùm ngây không ở đâu xa , chính là giải quyết khẩn trương bài toán suy dinh dưỡng (SDD) của các bà mẹ và trẻ em Việt Nam bằng một thực phẩm mới “rau chùm ngây”!
  • Bài toán dinh dưỡng
Theo báo cáo của Liên Hiệp Quốc thì tỷ lệ suy dưỡng và thiếu vi chất ở trẻ em Việt Nam xếp vào loại cao nhất trên thế giới, còn theo số liệu từ Viện Dinh Dưỡng thuộc Bộ Y Tế Việt Nam thì tỷ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi của thiếu nhi trên cả nước năm 2008 hãy còn ở mức 32,6% trên tổng số trẻ em VN, nghĩa là có khoảng 8 triệu rưỡi trẻ em VN suy dinh dưỡng!
nhandan

Mặc dù đã đạt được một số tiến bộ, vấn nạn suy dinh dưỡng (SDD) bà mẹ trẻ em VN vẫn còn nguyên là bức xúc của xã hội , và là trọng trách gắn liền với công cuộc phát triển kinh tế. Các nỗ lực giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em, đặc biệt là thấp, còi là phải tập trung chăm sóc phụ nữ trước, trong suốt thời kỳ mang thai và trẻ em đến 2 tuổi – giai đoạn mà các tổn thương nghiêm trọng nếu có xảy ra không thể hồi phục được .
Trong khi đó, đối với trẻ em từ 1-3 tuổi, chi cần dùng 100gr lá tươi chùm ngây là cung ứng dư thừa lượng Calcium, Vitamine A,75% chất sắt, 50% lượng chất đạm (Protein), và bổ sung đáng kể luợng Potassium, các Vitamine B, chất Đồng, và tất cả acid animo cần thiết trong ngày cho trẻ. Đối với các bà mẹ đang mang thai hoặc đang cho con bú, thì chỉ cần dùng 300 gr lá tươi hoặc 48 gr bột lá khô chùm ngây mỗi ngàylà đủ lượng dinh dưỡng cần thiết hàng ngày cho bà mẹ.
Trong lúc sữa, nguồn dinh dưỡng phổ thông lâu đời không ai chối cãi, lại là thứ nhu yếu xa xỉ, đắt đỏ ở Việt Nam. Sữa bò, sữa dê dưới dạng đặc, lỏng, bột, đóng hộp hay đóng chai, có nguồn gốc rõ ràng hay không rõ ràng, nội hay ngoại. Tất cả, dĩ nhiên đều không thể thay thế nguồn sữa mẹ, nhưng lại được trọng vọng ở vị trí độc tôn, vô hình chung là nguồn khai thác béo bở cho đầu cơ buôn lậu, cho những tập đoàn lợi nhuận, và do đó tự nhiên, sữa từ lâu nó trở thành nhu yếu phẩm xa lạ đối với tất cả bà mẹ và trẻ em còi cọc Việt Nam!
Ở một góc khuất khác, ngay trong thành phố Hồ Chí Minh, lớn nhất nước, phát triển văn minh nhất nước, hàng chục các bếp ăn miễn phí từ thiện của các tổ chức xã hội bên cạnh hầu hết các bệnh viên, nổ lực giúp được muỗng cháo cầm hơi cho hàng ngàn lượt người nghèo cơ nhỡ mỗi ngày đã là vô cùng quí hóa, nói chi đến một bữa ăn đầy đủ dinh dưỡng?
  • Cây chùm ngây , năng suất và thu hoạch
3 tháng tuổi đã bắt đầu cho thu hoạch, cây cao 60cm bắt đầu cắt ngọn và mỗi tháng sau đó tỉa cành thúc đẩy cây đâm chồi, chăm sóc bón phân, sau 6 thàng tuổi, cây cao khoảng 2 mét, là thời gian bắt đầu thu hoạch chính, trung bình cây đã có thể cho từ 500gr-900gr lá tươi / cây /tháng. Nếu chỉ trồng 5000 cây/ hecta (2m2/cây), sau 6 tháng có thể thu hoạch trung bình 2500kg lá /hecta/tháng, Không mơ ước bán được với giá 70.000đồng/ kg như giá của chi Huỳnh Liên Lộc Thọ ở Xuân Lộc (Báo Đồng Nai 18/5/2008) đang bán, chỉ bán bằng giá như giá rau thông thường 20000đ/kg/ tại chợ thôi, thì thu nhập ròng tại vườn của người trồng cây chùm ngây ít nhất sẽ là 20 triệu đồng / tháng/hecta , sẽ là nguồn thu nhập đầy mơ ước đối với người nông dân Việt Nam hiện nay.
20,000 đồng rau chùm ngây mỗi ngày cung ứng đủ hầu hết lượng dinh dưỡng cần thiết cho một gia đình hai vợ chồng 2 đứa con giải quyết dứt điểm vấn nạn suy dinh dưỡng, cho những người nghèo thiết nghĩ không còn một lựa chọn nào tốt hơn trong lúc này!
Tôi tin rằng những người, những cơ quan, tổ chức quan tâm đến suy dinh dưỡng (SDD), quan tâm đến thu nhập bất thuờng thiếu đói của nguời nông dân đã có thể tìm ra lời giải đáp.
Kết luận
Rõ ràng cây chùm ngây, không chỉ là giải pháp độ sinh cho thế giới thứ ba như tổ chức lương thực thế giới (Food and Argriculture Organization) đề quyết mà còn là giải pháp ưu việt cho Việt nam chúng ta, vấn đề là làm thế nào để mọi người dân Việt Nam biết được giá trị của nó, để người nông dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng, để cây chùm ngây trở thành thực đơn hàng ngày trong mỗi bữa ăn , để những nhà sản xuất, chế biến dược phẩm của chúng ta không chỉ có mỗi một lựa chọn là mua nguyên liệu nước ngoài về dập thành viên rồi bán, và làm thế nào để phổ biến những sản phẩm của cây chùm ngây rộng khắp? tôi nghĩ, trước tiên , không ai khác hơn là các cơ quan truyền thông, báo đài, các nhà nghiên cứu, viện dinh dưỡng , cơ quan y tế và lương thực, cơ quan chức năng chuyên nghành, nhà sản xuất kinh doanh, dĩ nhiên không thể thiếu vai trò của các trường học….
Sẽ hết sức vô cảm, nếu chúng ta tiếp tục để những bà mẹ ốm yếu thiếu sữa, những trẻ em lớn lên trong còi cọc, những bệnh nhân, những người nghèo lây lất, bên cạnh cây chùm ngây, nguồn dược liệu và dinh dưỡng phong phú đã có từ lâu trên nhiều vùng của đất nước chúng ta.
Nguyễn Thành Hà / Cty Văn Kiếm Nhân
Ngày Quốc Tế thiếu nhi 01/06/2009