Thứ Ba, 18 tháng 9, 2012

Niệm Phật trong tạp niệm- Thích Phổ Huân

Người niệm Phật là người cất bước trên con đường về Cực Lạc. Không luận là niệm nhiều hay ít, tán tâm hay nhất tâm. Hễ có niệm Phật là có chủng tử Phật, không sớm thì muộn cũng về đất Phật. Tuy nhiên điều quan trọng nhất của niệm Phật là có lòng tin. Tin Phật Thích Ca không bao giờ nói dối. Tin Phật A Di Đà sẽ tiếp dẫn và tin mình sẽ được vãng sanh. Ch
ỉ cần đủ niềm tin như vậy một cách vững vàng kiên cố thì bước đi đến Cực Lạc chắc chắn phải tới.
Niệm là cất bước đi, tin là phương tiện giúp cho việc đi mau tới. Riêng về tán tâm niệm Phật cũng đừng lo ngại chi cả, vì có ai lại biết được là mình nhất tâm, nếu biết mình đang nhất tâm niệm Phật thì cái biết này đã là tán tâm rồi. Cho nên có thể hiểu nhất tâm niệm Phật là giờ phút chót của đoạn đường đến Cực Lạc.
Nhưng nói vậy không có nghĩa là ta không có được giây phút nhất tâm nào lúc đang niệm Phật. Dĩ nhiên là phải có, mà có đây cũng được xem như không, vì đã nói khi biết được nhất tâm là đã có sự động (biết) trong khi niệm Phật rồi. Thành ra có nhất tâm hay không điều này ta đừng lo ngại.
Cái lo ngại nhất của người niệm Phật là quên niệm Phật. Khi ta quên niệm Phật thì ngay lúc đó ta đã dừng lại bước đi tới hướng về Cực Lạc, mà đứng lại cũng còn may mắn chỉ sợ ta bị đẩy lùi nữa là khác. Người ta thường nói không tiến ắt phải lùi nghĩa là vậy. Những hình ảnh tư tưởng tham vọng, sân hận là sức đẩy xô ta lùi lại sau. Sức đẩy của chúng có thể mạnh hơn câu niệm Phật nếu ta niệm lơ là biếng trễ.
Chúng ta cũng đừng lo ngại rằng niệm Phật xen vào công việc giao tế sinh hoạt, ăn uống, vệ sinh là bất kính. Trong hoàn cảnh vậy, đây mới là sự niệm Phật chí thành tinh tấn, bởi đó chứng tỏ định lực nhớ ghi của ta đã vững vàng. Hơn nữa niệm Phật là niệm cái tánh giác Phật tánh của mình thì việc khắc ghi mãi tánh giác ấy vẫn hợp với Phật pháp. Và hẳn nhiên trong tình huống như thế không thể nào niệm ra tiếng được, mà chỉ nhớ ghi thôi. Nhớ rằng ta đang biết câu niệm Phật trong đầu đang tuôn chảy. Do vậy nếu có lo ngại là lo ta có thường nhớ câu niệm Phật hay không?
Với công việc lao động bằng tay chân thì còn dễ niệm, chớ việc làm tính toán nghĩ suy bằng trí óc hay vào những lúc hầu chuyện với người làm sao niệm được! Trường hợp như thế ta phải giải quyết hoàn tất công việc đó, nhưng cố gắng làm sao trở về với câu niệm Phật được lúc nào hay lúc đó. Đây không phải là điều gượng gạo phân tâm, khó xử mà là phương tiện luyện tâm niệm Phật vậy.
Trong cuộc sống hằng ngày tâm niệm của ta thường lăng xăng chạy theo muôn chuyện, đầu óc chẳng bao giờ muốn ngừng nghỉ, bởi vậy mỗi câu niệm Phật hay bị xen vào những tạp niệm. Nhưng thử nghĩ nếu ta không niệm ngay lúc này mà đợi đúng giờ đúng khắc trì kinh mới niệm thì làm sao định lực niệm Phật có đủ sức để trừ khử tạp niệm ngày càng dung dưỡng trong ta. Chẳng nói gì ngoài giờ tụng kinh lễ Phật mà ngay luôn giờ phút trang nghiêm thanh tịnh trước bàn Phật tạp niệm vẫn tấn công vào. Việc này cho ta thấy, là ta đã quá xem thường tạp niệm, nên dễ duôi, tự do cho nó vào ra thoải mái. Hay đúng hơn là ta đã không thực tập niệm Phật ngay trong tạp niệm. Nếu ta thực sự không ngại gì niệm Phật trong lúc bận bịu, rộn ràng, lúc đi, đứng, nằm, ngồi, ăn uống, làm việc, tiếp chuyện v.v… mỗi mỗi giây phút niệm Phật, có mặt trong giờ phút vừa thức dậy đi vào cuộc sống, cho đến đặt lưng xuống ngủ, kể cả đến lúc nhắm mắt ngủ quên mới thôi, thì ta có lo gì tạp niệm nổi lên trong giờ phút trì kinh trước điện Phật.
Hay dù cho tạp niệm có nóng lên trong lúc trang nghiêm đó, thì cũng chỉ tồn tại trong khoảnh khắc rồi sẽ biến mất đi. Bởi đó là do ta có thực tập, sẵn sàng ứng phó với tạp niệm, và vậy không còn lo lắng. Thế là ta trở về với lời kinh tiếng kệ một cách dễ dàng.
Chúng ta có thể đồng ý rằng còn sống là còn có tạp niệm. Vì tạp niệm là do duyên căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) tiếp xúc với cảnh trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) tạo ra bao hành động của thân và tâm. Bằng hình thức này, mức độ kia bất cứ người nào trong xã hội vẫn không trốn chạy được tạp niệm, tuy vậy chúng ta cũng thấy có tạp niệm con người mới có phân biệt điều tốt việc xấu, và như không có phân biệt, thì làm sao con người phát triển được những tư duy. Các vị Thánh, Tổ ban sơ cũng từ tạp niệm mà cuối cùng đi dần đến nhất niệm, cũng như mượn phương tiện trở về cứu cánh. Vậy thì niệm Phật trong tạp niệm vẫn là một việc rất quý, khó hành, huống chi muốn có nhất niệm phải từ tạp niệm mà ra, chỉ sợ là, ta có niệm được trong lúc tạp niệm hay không! Hay suốt đời sống chìm trong tạp niệm.
Nói rõ lại con đường đi đến Cực Lạc trước sau gì cũng hiển lộ rõ ràng trước mắt người niệm Phật. Và phương tiện để đưa hành giả niệm Phật đến đích mau hay chậm, chắc chắn hay không là do sức niệm Phật của hành giả. Cuối cùng thì niệm Phật muốn được nhất tâm thì phải niệm ngay trong tạp niệm.
Tinhdo.net
Nam mô A Di Đà Phật _()_

Chủ Nhật, 16 tháng 9, 2012

Pháp Môn Thoát Sanh Tử Trong Một Đời

Khắp mười phương thế giới, đại khái chỉ có hai phân vức: Tịnh Độ và Uế Độ. Tịnh Độ là các cõi trong sạch trang nghiêm của Phật, một khi sanh về tất dứt hẳng phân đoạn sanh tử, sẽ lần chứng lên quả thánh. Uế Độ, là các cõi từ cảnh giới đến thân tâm của chúng sanh đều ô trược, loài hữu tình ở đó còn phải lên xuống trong sáu nẻo, chịu nỗi khổ luân hồi.
Loài người ở cảnh Ta Bà Uế Độ này, nếu chỉ tu ngũ giới thập thiện và các điều lành khác mà không niệm Phật, thì cùng Phật vô duyên. Vì không duyên với Phật, chủng tử vô lậu trong thức thứ tám thiếu cơ năng dẫn phát, nên dù có tu các nghiệp lành, nhiều lắm cũng chỉ sanh lên cõi trời, không được về Tịnh Độ. Thọ số ở các cõi trời tuy lâu, nhưng vẫn có hạn lượng, khi phước báo hết là dứt một đoạn sống chết, rồi tùy nghiệp thọ sanh nơi khác. Nếu như vẫn còn nghiệp lành thuộc thượng phẩm thập thiện, lại tùy sanh ở các cõi trời thấp hoặc cao. Nghiệp trung phẩm thập thiện, sanh về cõi người. Nghiệp hạ phẩm thập thiện, sanh ở cõi A Tu La. Nếu là nghiệp dữ thuộc hạ phẩm thập ác, thì sa xuống loài bàng sanh. Nghiệp trung phẩm thập ác, sanh ở loài ngạ quỷ. Nghiệp thượng phẩm thập ác, đọa vào địa ngục.

Chúng sanh do ngã chấp làm gốc, từ nơi đó khởi tạo các nghiệp lành dữ thuộc sáu đường, nên tùy theo sự thành thục của mỗi loại chủng tử, phải chịu lên xuống luân hồi. Trong kiếp luân hồi, nghiệp nhiễm dễ tạo, duyên lành khó tu, nên thời gian đọa xuống ác đạo rất lâu dài, sanh lên thiên đạo rất ngắn ít. Đức Phật đã than: "Chúng sanh thường lấy ba ác đạo làm quê nhà!" Vì thế chúng ta có thể đoán định: "Tất cả loài hữu tình, nếu không về Tịnh Độ của chư Phật, tất phải ở Uế Độ. Đã ở Uế Độ, với hoàn cảnh xấu ác nhiều chướng duyên, với căn cơ người thời mạt tất sớm muộn cũng phải đọa ác đạo. Và, muốn sanh về Tịnh Độ của Phật, tất phải niệm Phật."

* Có kẻ gạn hỏi: "Đường lối giải thoát có nhiều môn, hà tất phải niệm Phật?" Điểm này nếu suy nghiệm sẽ tự hiểu, tuy nhiên cũng xin phúc đáp cho rõ hơn:

- Khi xưa đức Như Lai tuy diệt độ, nhưng chánh pháp còn thạnh, chúng sanh nghiệp nhẹ tâm thuần, nên dù tu pháp môn nào, cũng đều có thể thành tựu. Giảm xuống đến thời Tượng Pháp thì cách Phật đã xa, hoàn cảnh và nhơn tâm lần lần phức tạp, trăm ngàn người tu hành, hoặc may mới có một hai người đắc đạo. Huống nay lại đi sâu vào thời mạt pháp, đạo đức suy vi, bậc tu hành chân chánh còn có ít người, nói chi đến việc chứng quả? Bởi thời nay chúng sanh chướng nặng tâm tạp, sự sống và lối tổ chức xã hội khó khăn phiền toái hơn xưa. Lại thêm chiến tranh, đói rách, thiên tai nhơn họa thường thường tiếp diễn, cảnh khiêu dâm bắn giết được cổ xúy, tôn giáo đạo đức bị xem là trò ma túy, chuyện lỗi thời. Với nhiều chướng duyên trong và ngoài ảnh hưởng nhau như thế, nếu tự lực tu hành theo các pháp môn khác, tất nhiên khó bề thành tựu. Vả lại muốn thoát luân hồi, phải dứt trừ kiến hoặc và tư hoặc. Nhưng theo lời cổ đức: "Ngăn được kiến hoặc khó như ngăn chận dòng nước mạnh từ bốn mươi dặm xa chảy lại," huống chi là diệt trừ, và kế đến dứt cả tư hoặc ư? Cho nên trong thời mạt pháp, muốn được giải thoát, chỉ duy có Niệm Phật pháp môn. Bởi môn này đã dùng hết tự lực, còn nhờ thêm tha lực, dù nghiệp hoặc chưa dứt, cũng nhờ sức Phật tiếp dẫn mà được đới nghiệp vãng sanh. Khi đã về Cực Lạc, tất không còn thối chuyển vĩnh viễn thoát luân hồi.

Đức Thế Tôn là bậc bi trí sâu xa, về căn cơ thời mạt pháp và hiệu lực của môn Tịnh Độ, Ngài có huyền ký trước nơi Kinh Đại Tập và Vô Lượng Thọ, như chương thứ nhứt đã nói. Thế thì biết, trong thời mạt pháp, khi hiệu lực hiện chứng của các tông đều yếu kém, để kéo dài pháp vận và cứu độ chúng sanh, chỉ duy có môn Niệm Phật. Các tông khác như Thiền, Giáo, Luật, Mật tuy còn lưu truyền và có nhiều người tu, cũng chỉ ở trong khả năng giáng xuống làm trợ duyên, chớ không thể riêng rẽ sanh hiệu nghiệm trên đường giải thoát. Trong bức thơ gởi cho một vị tăng, Ấn Quang đại sư đã nói: "Ở sâu vào thời mạt pháp này, nếu tu theo các môn khác, nói đến sự gieo căn lành và làm nhân duyên đắc độ về sau thì có, nói đến sự chứng quả giải thoát trong đời hiện tại thì không."

Do những điều đã dẫn giải trên đây, ta có thể kết luận: "Ở vào thời mạt pháp, duy Niệm Phật mới là môn thoát sanh tử trong một đời."


(HT. Thích Thiền Tâm - Trích sách Niệm Phật Thập

Nhớ về ngày ấy

Tôi sinh ra tại một vùng quê kinh tế không quá triển mấy, nhưng đã cho tôi khôn lớn và đi học có nghề nhưng không đủ duyên để giữ tôi ở lại đi làm và sống cung người thân. Nhân dịp Vu lan về, tôi từ sài trở về quê để nghĩ hè nhưng tâm niệm muốn đi dự lễ Tự tứ tăng Vu Lan Bồn tại Tịnh Xá Ngọc Tường. Được biết lễ này được chư Tăng Khất sĩ thường tổ chức sau ngày an cư xong, chư Tăng tập trung về một nơi để Tự Tứ vào đêm 14 tháng 7 và hôm sau là ngày rằm chính thức Vu Lan, là ngày mà để tạo nhân duyên cho bá tánh  thập phương câu hội về dâng cúng đến Tam bảo và gieo giống vào ruộng phước điền của Chư Tăng hầu đem lại nhiều phước để hồi hướng cầu nguyện báo đáp công ơn của cha mẹ và thân bằng quyến thuộc đã quá vãng. Thật sự cũng có đủ duyên phước nên đã khởi lên ý niệm xuất gia khi nhìn thấy hình chư tăng và không khí buổi lễ trang nghiêm và long trọng làm tâm giác ngộ của tôi tỉnh thức sống dậy mặc dù ý định xuất gia đã có lâu có từ năm học cấp 2. một tâm trạng mà chỉ có nơi tôi mới biết với những hình ảnh lạ kỳ làm vấy khởi trong tâm thức, khiến tôi phải quyết định xuất gia mặc dù còn đang ở sài gòn xin việc nhưng lúc đó mọi ý niệm trong tâm tôi đều ngưng tất cả thậm chí có người điện thoại liên lạc tôi để nhận đi làm, chính do căn duyên đầy nên dù cho có ai cản trở đi nữa thì lòng chí quyết xuất gia không ngăn cản. chắc đây cũng có căn lành gieo vào tôi lúc còn nhỏ tôi đã được cha mẹ chở đi chùa, nhưng ý niệm tu hành và thích đi chùa lúc vẫn không có

Cây Chùm Ngây – Cây Thần Diệu – Cây Độ Sinh M o r i n g a O l e i f e r ay

    
TỔNG HỢP MỘT SỐ THÔNG TIN VỀ CÂY CHÙM NGÂY
(Moringa Oleifera)

I. TÊN VÀ NGUỒN GỐC:
• Tên thông dụng: Chùm ngây (VN), Moringa (international) , Drumstick tree (US), Horseradish tree, Behen, Drumstick Tree, Indian Horseradish, Noix de Bahen.
• Tên Khoa học: Moringa oleifera hay M. Pterygosperma thuộc họ Moringaceae
• Nhà Phật gọi là cây Độ Sinh (Tree of Life )
Các nhà dược học, các nhà khoa học nghiên cứu thực vật học, dựa vào hàm lượng dinh dưỡng và nguồn dược liệu quí hiếm được kiểm nghiệm, đã không ngần ngại đặt tên cho nó là cây Thần Diệu ( Miracle Tree) .
Nguồn gốc : Cây xuất xứ từ vùng Nam Á, có lịch sử hơn 4 ngàn năm ,nhưng phổ biến rất nhiều ở cả Châu Á và Châu Phi. Cây Chùm Ngây rất phổ thông ở Ấn Độ và được dân tộc Ấn trân trọng đặt tên là cây Độ Sinh

  
II. LỢI ÍCH , CÔNG DỤNG VÀ GIÁ TRỊ:
Lợi ích và công dụng :
Cây Chùm Ngây Moringa Oleifera hiện được 80 quốc gia trên thế giới , những quốc gia tiên tiến sử dụng rộng rãi và đa dạng trong công nghệ dược phẩm, mỹ phẩm, nước giải khát dinh dưỡng và thực phẩm chức năng. Các quốc gia đang phát triển sử dụng Moringa như dược liệu kỳ diệu kết hợp chữa những bịnh hiểm nghèo, bệnh thông thường và thực phẩm dinh dưỡng.
Các bộ phận của cây chứa nhiều khoáng chất quan trọng, và là một nguồn cung cấp chất đạm, vitamins, beta-carotene, acid amin và nhiều hợp chất phenolics. Cây Chùm Ngây cung cấp một hỗn hợp pha trộn nhiều hợp chất như zeatin, quercetin, beta-sitosterol caffeoylquinic acid và kaempferol, rất hiếm gặp tại các loài cây khác.
Điều Trị :. Các bộ phận của cây như lá, rễ, hạt, vỏ cây, quả và hoa.. có những hoạt tính như kích thích hoạt động của tim và hệ tuần hoàn, hoạt tính chống u-bướu, hạ nhiệt, chống kinh phong, chống sưng viêm, trị ung loét, chống co giật, lợi tiểu, hạ huyết áp, hạ cholesterol, chống oxy-hóa, trị tiểu đường, bảo vệ gan, kháng sinh và chống nấm.. Cây đã được dùng để trị nhiều bệnh trong Y-học dân gian tại nhiều nước trong vùng Nam Á. (Phytotherapy Research Số 21-2007).
Dinh Dưỡng: Lá moringa giàu dinh dưỡng hiện được hai tổ chức thế giới WHO và FAO xem như là giải pháp ưu việt cho các bà mẹ thiếu sữa và trẻ em suy dinh dưỡng, và là giải pháp lương thực cho thế giới thứ ba.
• Đối với trẻ em từ 1-3 tuổi, cứ ăn 20gr lá tươi moringa là cung ứng 90% Calcium , 100% Vitamin C, Vitamin A, 15% chat sat, 10% chất đạm cần thiết và hàm luợng Potassium , Đồng, …vàVitamin B bổ sung cần thiết cho trẻ .
• Đối với các bà mẹ đang mang thai và cho con bú, chi cần dùng 100gr lá tươi mỗi ngày là đủ bổ sung Calcium , Vitamin C, VitaminA ,Sắt , Đồng, Magnesium, Sulfur, các vitamin B cần thiết trong ngày. : (nguồn : http://www.moringatree.co.za/analysis.html)
Cách dùng : Rau sống: lá tươi dùng trộn ăn sống như rau xà lách_ Nước sinh tố : xay 20gr lá chung với 2 muỗng cafe sữa, 2 muỗng café đường sữa uống như uống sinh tố_Nấu canh : 100gr lá moringa nấu chung với 50gr thịt bò hoặc heo , hoặc nấu chay với 100gr nấm.
Dưỡng da : tại Mỹ và các nước Âu châu, cây Moringa được sử dụng rộng rãi trong công nghê dưỡng da , mỹ phẩm cao cấp.
Cáh dùng đơn giản: các bà các cô có thể áp dụng ngay: giã nhuyễn 20gr lá, để không hoăc trộn với dầu lấy từ hat Moringa thoa đắp 2 lần, mỗi lần 7 phút, trong một ngày , trong một tuần sẽ thấy hiệu nghiệm. (kinh nghiệm)
( lưu ý : không nên ủ đắp trên da mặt quá lâu trên 10 phút )
Lọc nước : Hạt Chùm Ngây có chứa một số hợp chất “đa điện giải” (polyelectrolytes) tự nhiên có thể dùng làm chất kết tủa để làm trong nước.Kết quả thử nghiệm lọc nước : Nước đục (độ đục 15-25 NTU, chứa các vi khuẩn tạp 280-500 cfu ml(-1), khuẩn coli từ phân 280-500 MPN 100 ml(-1). Dùng hạt Chùm Ngây làm chất tạo trầm lắng và kết tụ, đưa đến kết quả rất tốt (độ đục còn 0.3-1.5 NTU; vi khuẩn tạp còn 5-20 cfu; và khuẩn coli còn 5-10 MPN..) Phương pháp lọc này rất hữu dụng tại các vùng nông thôn của các nước nghèo..và được áp dụng khá rộng rãi tại Ấn độ (Journal of Water and Health Số 3-2005).
III. GIAI ĐOẠN ƯƠM TRỒNG CỦA MORINGA TỪ HẠT GIỐNG:
  
IV. ĐẶC TÍNH THỰC VẬT:
Cây thuộc loại đại mộc, có thể mọc cao 5 đến10m. Lá kép (có thể đến 3 lần= triple-pinnate) dài 30 - 60 cm, hình lông chim, màu xanh mốc; lá chét dài 12 - 20 mm hình trứng, mọc đối có 6 - 9 đôi. Hoa trắng, có cuống, hình dạng giống hoa đậu, mọc thành chùy ở nách lá, có lông tơ. Quả dạng nang treo, dài 25 - 30cm, ngang 2 cm, có 3 cạnh, chỗ có hạt hơi gồ lên, dọc theo quả có khía rãnh. Hạt màu đen, tròn có 3 cạnh, lớn cỡ hạt đậu Hòa Lan. Cây trổ hoa vào các tháng 1 – 2.
• Thành phần hóa học: Rễ chứa: Glucosinolates như 4-(alpha-L-rhamnosyloxy)benzyl glucosinolate (chừng 1%) sau khi chịu tác động của myrosinase, sẽ cho 4-(alpha-L-rhamnosyloxy)benzyl isothiocyanate. Glucotropaeolin (chừng 0.05%) sẽ cho benzylisothiocyanate.
Hạt chứa: Glucosinolates ( như trong rễ) : có thể lên đến 9% sau khi hạt đã được khử chất béo.Các acid loại phenol carboxylic như 1-beta-D-glucosyl-2,6-dimethyl benzoate.Dầu béo (20-50%) : phần chính gồm các acid béo như oleic acid (60-70%), palmitic acid (3-12%), stearic acid (3-12%) và các acid béo khác như behenic acid, eicosanoic và lignoceric acid..
Lá chứa: Các hợp chất loại flanonoids và phenolic như kaempferol 3-O-alpha-rhamnoside, kaempferol, syringic acid, gallic acid, rutin, quercetin 3-O-beta-glucoside. Các flavonol glycosides được xác định đều thuộc nhóm kaempferide nối kết với các rhamnoside hay glucoside.
V. THÀNH PHẦN DINH DƯỠNG:
Bảng phân tích hàm lượng dinh dưỡng của quả, lá tươi và bột khô của lá cây Chùm Ngây theo báo cáo ngày 17/7/1998 của Campden and Chorleywood Food Research Association in Conjunction.
BẢNG PHÂN TÍCH HÀM LƯỢNG DINH DƯỠNG CỦA MORINGA
STT
THÀNH PHẦN DINH DƯỠNG/100gr
TRÁI TƯƠI
LÁ TƯƠI
BỘT LÁ KHÔ
01 Water ( nước ) %
86,9 %
75,0 %
7,5 %
02 calories
26
92
205
03 Protein ( g )
2,5
6,7
27,1
04 Fat ( g ) ( chất béo )
0,1
1,7
2,3
05 Carbohydrate ( g )
3,7
13,4
38,2
06 Fiber ( g ) ( chất xơ )
4,8
0,9
19,2
07 Minerals ( g ) ( chất khoáng )
2,0
2,3
_
08 Ca ( mg )
30
440
2003
09 Mg ( mg )
24
25
368
10 P ( mg )
110
70
204
11 K ( mg )
259
259
1324
12 Cu ( mg )
3,1
1,1
0,054
13 Fe ( mg )
5,3
7,0
28,2
14 S ( g )
137
137
870
15 Oxalic acid ( mg )
10
101
1,6
16 Vitamin A - Beta Carotene ( mg )
0,11
6,8
1,6
17 Vitamin B - choline ( mg )
423
423
-
18 Vitamin B1 - thiamin ( mg )
0,05
0,21
2,64
19 Vitamin B2 - Riboflavin ( mg )
0,07
0,05
20,5
20 Vitamin B3 - nicotinic acid ( mg )
0,2
0,8
8,2
21 Vitamin C - ascorbic acid ( mg )
120
220
17,3
22 Vitamin E - tocopherol acetate
-
-
113
23 Arginine ( g/16gN )
3,66
6,0
1,33 %
24 Histidine ( g/16gN )
1,1
2,1
0,61%
25 Lysine ( g/16gN )
1,5
4,3
1,32%
26 Tryptophan ( g/16gN )
0,8
1,9
0,43%
27 Phenylanaline ( g/16gN )
4,3
6,4
1,39 %
28 Methionine ( g/16gN )
1,4
2,0
0,35%
29 Threonine ( g/16gN )
3,9
4,9
1,19 %
30 Leucine ( g/16gN )
6,5
9,3
1,95%
31 Isoleucine ( g/16gN )
4,4
6,3
0,83%
32 Valine ( g/16gN )
5,4
7,1
1,06%
http://www.moringatree.co.za/analysis.html


VI. SO SÁNH HÀM LƯỢNG DINH DƯỠNG:
BẢNG SO SÁNH CHẤT DINH DƯỠNG TRONG MỖI 100GR LÁ CHÙM NGÂY TƯƠI & KHÔ : (nguồn : http://www.moringatree.co.za/analysis.html)
BẢNG SO SÁNH CHẤT DINH DƯỠNG
(Theo tư liệu tổng hợp mới nhất về cây Chùm Ngây của ZijaMoringaHealth.Com )
Cây Chùm Ngây (Moringa oleifera) chứa hơn 90 chất dinh dưỡng tổng hợp. Những chất dinh dưỡng cần thiết để gìn giữ sức khỏe con người , chống giảm nguy cơ từ những chứng bệnh suy thoái, chữa trị bách bệnh thông thường. Những hình ảnh minh họa dưới đây là bảng so sánh từ các nghiên cứu của các nhà khoa học giữa hàm lượng dinh dưỡng ưu việt của lá cây Chùm Ngây và những thực phẩm , những trái cây tiêu biểu thường dùng như Cam, Cà-rốt, Sữa, Cải Bó xôi, Yaourt, và chuối nếu so sánh trên cùng trọng lượng:
 
  • Vitamin C 7 lần nhiều hơn trái Cam
Vitamin C tăng cường hệ thống miễn nhiễm trong cơ thể và chữa trị những chứng bệnh lây lan như cảm cúm.
  • Vitamin A 4 lần nhiều hơn Cà-rốt
Vitamin A hoạt động như một tấm khiên chống lại những chứng bệnh về mắt , da và tim , đồng thời ngăn ngừa tiêu chảy và những chứng bệnh thông thường khác..
  • Calcium 4 lần nhiều hơn sữa
Calcium bồi bổ cho xương và răng, giúp ngăn ngừa chứng loãng xương..
  • Chất sắt 3 lần so với cải bó xôi
Chất Sắt là một chất cần thiết đóng vai trò quan trọng trong việc truyền dẫn Oxy trong máu đến tất cả bộ phận trong cơ thể..
  • Chất đạm (protein) 2 lần nhiều hơn Ya-ua
Chất Đạm là những chất xây dựng tế bào cho cơ thể, nó được làm ra từ at-xit A-min, thông thường at-xit A-min chỉ có những sản phẩm từ động vật như thịt trứng, sữa… kỳ lạ thay lá Chùm Ngây có chứa những At-xít Amin cần thiết đó.
  • Potassium 3 lần nhiều hơn trái chuối
Potassium là chất cần thiết cho óc và hệ thần kinh .
BẢNG SO SÁNH CHẤT DINH DƯỠNG ( nguồn khác):
nutrtional charts
VII. NHỮNG NGHIÊN CỨU KHOA HOC VỀ CÂY CHÙM NGÂY :
Chùm Ngây được xem là một cây đa dụng, rất hữu ích tại những quốc gia nghèo thuộc “Thế giới thứ ba” nên đã được nghiên cứu khá nhiều về các hoạt tính dược dụng, giá trị dinh dưỡng và công nghiệp. Đa số các nghiên cứu được thực hiện tại Ấn Độ, Philippines, và Phi Châu..
Tính cách đa dụng của Moringa oleifera:
Nghiên cứu rộng rãi nhất về giá trị của Moringa oleifera được thực hiện tại ĐH Nông Nghiệp Falsalabad, Pakistan :
Moringa oleifera Lam (Moringaceae) là một cây có giá trị kinh tế cao, cây phân bố tại nhiều quốc gia nhiệt đới và cận nhiệt đới. Cây vừa là một nguồn dược liệu và là một nguồn thực phẩm rất tốt. Các bộ phận của cây chứa nhiều khoáng chất quan trọng, và là một nguồn cung cấp chất đạm, vitamins, beta-carotene, acid amin và nhiều hợp chất phenolics…
Hoạt tính kháng nấm gây bệnh:
Nghiên cứu tại Institute of Bioagricultural Sciences, Academia Sinica, Đài Bắc (Taiwan) ghi nhận dịch chiết từ lá và hạt Chùm Ngây bằng ethanol có các hoạt tính diệt được nấm gây bệnh loại Trichophyton rubrum, Trichophyton mentagrophytes, Epidermophyton floccosum và Microsporum canis. Các phân tích hóa học đã tìm được trong dầu trích từ lá Chùm Ngây đến 44 hóa chất. (Bioresource Technology Số 98-2007).
Tác dụng của quả Chùm Ngây trên cholesterol và lipid trong máu:
Nghiên cứu tại ĐH Baroda, Kalabhavan, Gujarat (Ấn Độ) về hoạt tính trên các thông số lipid của quả Chùm Ngây, thử trên thỏ, ghi nhận : Thỏ cho ăn Chùm Ngây (200mg/kg mỗi ngày) hay uống lovastatin (6mg/kg/ ngày) trộn trong một hổn hợp thực phẩm có tính cách tạo cholestero cao, thử nghiệm kéo dài 120 ngày. Kết quả cho thấy Chùm Ngây và Lovastatin có tác dụng gây hạ cholesterol, phospholipid, triglyceride, VLDL, LDL hạ tỷ số cholesterol/ phospholipid trong máu..so với thỏ trong nhóm đối chứng. Khi cho thỏ bình thường dùng Chùm Ngây hay Lovastatin : mức HDL lại giảm hạ nhưng nếu thỏ bị cao cholesterol thì mức HDL lại gia tăng. Riêng Chùm Ngây còn có thêm tác dụng làm tăng sự thải loại cholesterol qua phân (Journal of Ethnopharmacology Số 86-2003).
Các hoạt tính chống co-giật, chống sưng và gây lợi tiểu :
Dịch trích bằng nước nóng của hoa, lá, rễ, hạt..vỏ thân Chùm Ngây đã được nghiên cứu tại Trung Tâm Nghiên cứu Kỹ Thuật (CEMAT) tại Guatamala City về các hoạt tính dược học, thử nơi chuột. Hoạt tính chống co giật được chứng minh bằng thử nghiệm trên chuột đã cô lập, hoạt tính chống sưng thử trên chân chuột bị gây phù bằng carrageenan và tác dụng lợi tiểu bằng lượng nước tiểu thu được khi chuột được nuôi nhốt trong lồng. Nước trích từ hạt cho thấy tác động ức chế khá rõ sự co giật gây ra bởi acetylcholine ở liều ED50= 65.6 mg/ml môi trường ; tác động ức chế phụ gây ra do carrageenan được định ở 1000mg/kg và hoạt tính lợi tiểu cũng ở 1000 mg/kg. Nước trích từ Rễ cũng cho một số kết quả (Journal of Ethnopharmacology Số 36-1992).
Các chất gây đột biến genes từ hạt Chùm ngây rang chín :
Một số các hợp chất các chất gây đột biến genes đã được tìm thấy trong hạt Chùm Ngây rang chín : Các chất quan trọng nhất được xác định là 4 (alpha Lrhamnosyloxy) phenylacetonitrile; 4 - hydroxyphenylacetonitri le và 4 - hydroxyphenyl-acetamide. (Mutation Research Số 224-1989).
Khả năng ngừa thai của Rễ Chùm Ngây :
Nghiên cứu tại ĐH Jiwaji, Gwalior (Ấn độ) về các hoạt tính estrogenic, kháng estrogenic, ngừa thai của nước chiết từ Rễ Chùm Ngây ghi nhận chuột đã bị cắt buồng trứng, cho uống nước chiết, có sự gia tăng trọng lượng của tử cung. Hoạt tính estrogenic được chứng minh bằng sự kích thích hoạt động mô tế bào tử cung.
Khi cho chuột uống nước chiết này chung với estradiol dipropionate (EDP) thì có sự tiếp nối tụt giảm trọng lượng của tử cung so sánh với sự gia tăng trọng lượng khi chỉ cho chuột uống riêng EDP. Trong thử nghiệm deciduoma liều cao nhất 600mg/kg có tác động gây rối loạn sự tạo deciduoma nơi 50 % số chuột thử . Tác dụng ngừa thai của Rễ Chùm Ngây được cho là do nhiều yếu tố phối hợp (Journal of Ethnopharmacology Số 22-1988).
• Hoạt tính kháng sinh của Hạt Chùm Ngây :
4 (alpha-L-Rhamnosyloxy)benzyl isothiocyanate được xác định là có hoạt tính kháng sinh mạnh nhất trong các hoạt chất trích từ hạt Chùm Ngây ( trong hạt Chùm Ngây còn có benzyl isothiocyanate). Hợp chất trên ức chế sự tăng trưởng của nhiều vi khuẩn và nấm gây bệnh. Nồng độ tối thiểu để ức chế Bacillus subtilis là 56 micromol/l và để ức chế Mycobacterium phlei là 40 micromol/l (Planta Medica Số 42-1981).
Hoạt tính của Rễ Chùm ngây trên Sạn thận loại Oxalate :
Thử nghiệm tại ĐH Dược K.L.E.S, Nehru Nagar, Karnakata (Ấn Độ) trên chuột bị gây sạn thận, oxalate bằng ethylen glycol ghi nhận dịch chiết bằng nước và alcohol rễ cùng lõi gỗ Chùm Ngây làm giảm rõ rệt nồng độ oxalate trong nước tiểu bằng cách can thiệp vào sự tổng hợp oxalate trong cơ thể. Sự kết đọng tạo sạn trong thận cũng giảm rất rõ khi cho chuột dùng dịch chiết này như một biện pháp phòng ngừa bệnh sạn thận .
Dùng hạt Chùm ngây để lọc nước :
Hạt Chùm Ngây có chứa một số hợp chất “đa điện giải” (polyelectrolytes) tự nhiên có thể dùng làm chất kết tủa để làm trong nước.Kết quả thử nghiệm lọc nước : Nước đục (độ đục 15-25 NTU, chứa các vi khuẩn tạp 280-500 cfu ml(-1), khuẩn coli từ phân 280-500 MPN 100 ml(-1). Dùng hạt Chùm Ngây làm chất tạo trầm lắng và kết tụ, đưa đến kết quả rất tốt (độ đục còn 0.3-1.5 NTU; vi khuẩn tạp còn 5-20 cfu; và khuẩn coli còn 5-10 MPN..) Phương pháp lọc này rất hữu dụng tại các vùng nông thôn của các nước nghèo..và được áp dụng khá rộng rãi tại Ấn độ (Journal of Water and Health Số 3-2005).

VIII. CÔNG DỤNG CỦA CÂY CHÙM NGÂY TRÊN THẾ GIỚI:
• Mỹ hiện nay là nước nhập nguyên liệu Moringa thô nhiều nhất, sử dụng trong công nghê mỹ phẩm cao cấp, nước uống và quan trong hơn là chiết suất thành nguyên liệu tinh cung ứng cho công nghiệp dược phẩm, hóa chất.
Ấn Độ: Chùm Ngây được gọi là sainjna, mungna (Hindi, Asam, Bengal..); Phạn ngữ: Shobhanjana.Là một trong những cây thuốc “dân gian” rất thông dụng tại Ấn Độ. Vỏ thân được dùng trị nóng sốt, đau bao tử, đau bụng khi có kinh, sâu răng, làm thuốc thoa trị hói tóc; trị đau trong cổ họng (dùng chung với hoa của cây nghệ, hạt tiêu đen, rễ củ Dioscorea oppositifolia); trị kinh phong (dùng chung với thuốc phiện); trị đau quanh cổ (thoa chung với căn hành của Melothria heterophylla, Cocci nia cordifolia, hạt mướp (Luffa) và hạt Lagenaria vulgaris); trị tiểu ra máu; trị thổ tả (dùng chung với vỏ thân Calotropis gigantea, Tiêu đen, và Chìa vôi. Hoa dùng làm thuốc bổ, lợi tiểu. Quả giã kỹ với gừng và lá Justicia gendarussa để làm thuốc đắp trị gẫy xương. Lá trị ốm còi, gây nôn và đau bụng khi có kinh. Hạt: dầu từ hạt để trị phong thấp.
Pakistan: Cây được gọi là Sajana, Sigru. Cũng như tại Ấn, Chùm Ngây được dùng rất nhiều để làm các phương thuốc trị bệnh trong dân gian. Ngoài các cách
sử dụng như tại Ấn độ, các thành phần của cây còn được dùng như : Lá giả nát đắp lên vết thương, trị sưng và nhọt, đắp và bọng dịch hoàn để trị sưng và sa; trộn với mật ong đắp lên mắt để trị mắt sưng đỏ.. Vỏ thân dùng để phá thai bằng cách đưa vào tử cung để gây giãn nở. Vỏ rễ dùng sắc lấy nước trị đau răng, đau tai..Rễ tươi của cây non dùng trị nóng sốt , phong thấp, gout, sưng gan và lá lách..Nhựa từ chồi non dùng chung với sữa trị nhức đầu, sưng răng..
Trung Mỹ: Hạt Chùm Ngây được dùng trị táo bón, mụn cóc và giun sán
Saudi Arabia : Hạt được dùng trị đau bụng, ăn không tiêu, nóng sốt, sưng tấy ngoài da, tiểu đường và đau thắt ngang hông.
Việt Nam : Rễ Chùm Ngây được cho là có tính kích thích, giúp lưu thông máu huyết, làm dễ tiêu hóa, tác dụng trên hệ thần kinh, làm dịu đau. Hoa có tính kích dục. Hạt làm giảm đau. Nhựa (gomme) từ thân có tác dụng làm dịu đau.
Liều lượng và các phản ứng phụ cần lưu ý:
Hiện nay chưa có những báo cáo về những nguy hại đối với sức khoẻ trong việc sử dụng Hạt và Rễ Chùm Ngây theo các liều lượng trị liệu. Tuy nhiên dùng liều quá cao có thể gây ra buồn nôn, chóng mặt và ói mửa.
Liều cho uống : 5gram/ kg trọng lượng cơ thể, thử trên chuột , gây phản ứng keratin hóa quá mức tế bào bao tử và sơ hóa tế bào gan.
Liều chích qua màng phúc toan 22 đến 50 mg/ kg trọng lượng cơ thể gây tử vong nơi chuột thử nghiệm.
Không nên dùng Rễ Chùm ngây nơi phụ nữ có thai, vì có khả năng gây trụy thai.
                                                                                  ( Nguồn:DS Trần Viết Hưng/ ĐH Cần Thơ)


IX. SẢN PHẨM TỪ CÂY CHÙM NGÂY ( Moringa Oleifera):

Sản phẩm làm đẹp (beauty body) của The Body Shop (USA)


Nước uống dinh dưỡng của Cty Zija (Zijamoringahealth.com, USA)

Sản phẩm bột và viên dinh dưỡng của Yelixir (India)

Viên Chùm Ngây Bột Chùm Ngây
Dầu và hạt Chùm Ngây (Alibaba.com)
Lá Chùm Ngây tươi bày bán ở chợ Manila (Philipin)
X. CÁCH ƯƠM TRỒNG CÂY CHÙM NGÂY ƯƠM : Có nhiều cách ươm
1. Cách 1: Ngâm hạt trong nước ấm 24 giờ, Hạt sau khi ngâm , vớt ra trộn với cát, ủ trong bao tải, hoặc rơm rạ mỗi ngày tưới một lần, 3 - 6 ngày sau hạt nẩy mầm, đem hạt ươm vào bao nhựa hoặc chậu nhựa chứa đất tơi xốp có khoét lỗ rút nước, tưới nước vừa đủ ẩm , tránh sũng nước, 3 - 5 ngày cây sẽ nhú lên, chờ từ 6 - 8 tuần cây khỏe, đem ra trồng.
2. Cách 2: Đầu tiên, pha nước: 2 sôi + 3 lạnh (nước ấm), ngâm hạt Chùm ngây trong 24 giờ. (Kích thích cho hạt chùm ngây qua thời kỳ nghỉ & nẩy mầm.) Lấy khăn bọc hạt Chùm ngây lại & để trong tối. – (Phải để trong tối. Vì ánh sáng khuyếch tán có lợi cho cây xanh, nhưng cưỡng bức quá trình nẩy mầm. Đặc biệt là thành phần quang phổ màu xanh trong phổ ánh sáng trắng.) Mỗi ngày, nhúng bọc Chùm ngây vào nước mưa, trở qua trở lại. Sau đó, vẩy nhẹ để đừng ứ nước bên trong. – Làm cẩn thận vì có thể làm hư mầm non bên trong!(Bổ sung nước cũng như tránh ẩm mốc cho hạt.) Vài ngày sau, hạt nẩy mầm. Đem ươm vào chậu hoặc bao ny lon có đất tơi xốp, lưu ý là cả chậu hoặc bao nylon đều cần khoét lổ để thoát nước.
3. Cách 3: dùng bao nylon hoặc chậu nhựa có lỗ thoát nước, đường kính khoảng 15cm-20cm và sâu chừng 25-30cm, đổ đất xốp vào, sau đó đặt hạt sâu khoảng 25 mi-li-met dưới lớp đất xốp, phủ và nén đất nhè nhẹ, tưới nước cầm chừng không để khô qúa hoặc ướt qúa. Sau chừng ba ngày hạt sẽ nẩy mầm, và cây sẽ ló ra khỏi mặt đất sau chừng 1 tuần, tiếp tục giữ ẩm không để qúa khô, và tuyệt đối không để sũng nước.
TRỒNG : Cây ươm trồng trong chậu hoặc bao nylon được 6 - 8 tuần lễ, đã đâm rễ và cây đã cứng cáp. Đào lỗ rộng gấp đôi và sâu gấp đôi chậu nhựa, mỗi lỗ đào cách nhau từ 1,5m - 2m. Cắt đáy, rạch hai bên,nếu được xé toạc lấy chậu và bao ra khỏi lỗ, lưu ý không để phạm vào rễ cái. Đổ một lớp đất xốp trước khi đặt chậu hoặc bao nylon xuống, cuối cùng là phủ, nén lớp đất xốp chung quanh và mặt trên, giữ ẩm 2 - 3 tuần cây sẽ sống khoẻ, đến lúc đó không cần phải thường xuyên tưới nước nữa. Nhiều nơi để chỉ thu hoạch lá và hoa người ta ươm trồng ngay trên luống đất xốp bằng cách ươm hạt sâu 25mm và cách nhau 40cm như trồng ớt trồng cà.
XI. HIỆU QUẢ KINH TẾ:
Hiệu quả kinh tế ở đây được hiểu là hiệu quả kinh tế của toàn xã hội, trong đó người có nhu cầu, ngay cả những nguời có thu nhập thấp nhất, dễ dàng mua cho mình một sản phẩm mới đáp ứng yêu cầu và người cung ứng sản phẩm, từ người nông dân trồng cây cho đến những nhà kinh doanh chế biến sản xuất có trong tay một thị trường nóng hổi và rộng mở.
  • Đầu ra
Làm gì? Xuất cho ai? Bán cho ai ? Ai bao tiêu sản phẩm? là câu hỏi đầu tiên và vô cùng thực tế của nông dân và của tất cả những người muốn đầu tư trồng cây chùm ngây. Câu hỏi còn bỏ ngỏ chưa có ai, chưa có cơ quan chức năng, chưa có nhà kinh doanh chế biến sản xuất nào trả lời dứt khoát rõ ràng, dẫu biết rằng cây chùm ngây hết sức phổ biến tại hơn 80 nước trên thế giới nó hiện diện trong bữa ăn hằng ngày, nó có từ chợ rau cải , cửa hàng thực phẩm dinh dưỡng, thực phẩm chức năng , được các nước Âu Mỹ dùng phổ biến trong công nghê dược phẩm, mỹ phẩm, được các nước Đông Á và Nam Á xem như thần dược trong kết hợp chữa trị những căn bệnh hiểm nghèo, thời đại, và phổ thông.
Dựa vào những thông tin, số liệu đầy hưng phấn trên, chúng ta có quyền nghĩ đến những phương án cung cầu rộng lớn đầy triển vọng cho Cây chùm ngây như phổ biến cây trồng rộng khắp , đưa cây chùm ngây vào công nghệ thực phẩm dinh dưỡng, thực phẩm chức năng, dược phẩm, mỹ phẩm… nhưng trước mắt , bằng vào cái suy nghĩ nông cạn của tôi, đầu ra cho người nông dân, người đầu tư trồng cây chùm ngây không ở đâu xa , chính là giải quyết khẩn trương bài toán suy dinh dưỡng (SDD) của các bà mẹ và trẻ em Việt Nam bằng một thực phẩm mới “rau chùm ngây”!
  • Bài toán dinh dưỡng
Theo báo cáo của Liên Hiệp Quốc thì tỷ lệ suy dưỡng và thiếu vi chất ở trẻ em Việt Nam xếp vào loại cao nhất trên thế giới, còn theo số liệu từ Viện Dinh Dưỡng thuộc Bộ Y Tế Việt Nam thì tỷ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi của thiếu nhi trên cả nước năm 2008 hãy còn ở mức 32,6% trên tổng số trẻ em VN, nghĩa là có khoảng 8 triệu rưỡi trẻ em VN suy dinh dưỡng!
nhandan

Mặc dù đã đạt được một số tiến bộ, vấn nạn suy dinh dưỡng (SDD) bà mẹ trẻ em VN vẫn còn nguyên là bức xúc của xã hội , và là trọng trách gắn liền với công cuộc phát triển kinh tế. Các nỗ lực giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em, đặc biệt là thấp, còi là phải tập trung chăm sóc phụ nữ trước, trong suốt thời kỳ mang thai và trẻ em đến 2 tuổi – giai đoạn mà các tổn thương nghiêm trọng nếu có xảy ra không thể hồi phục được .
Trong khi đó, đối với trẻ em từ 1-3 tuổi, chi cần dùng 100gr lá tươi chùm ngây là cung ứng dư thừa lượng Calcium, Vitamine A,75% chất sắt, 50% lượng chất đạm (Protein), và bổ sung đáng kể luợng Potassium, các Vitamine B, chất Đồng, và tất cả acid animo cần thiết trong ngày cho trẻ. Đối với các bà mẹ đang mang thai hoặc đang cho con bú, thì chỉ cần dùng 300 gr lá tươi hoặc 48 gr bột lá khô chùm ngây mỗi ngàylà đủ lượng dinh dưỡng cần thiết hàng ngày cho bà mẹ.
Trong lúc sữa, nguồn dinh dưỡng phổ thông lâu đời không ai chối cãi, lại là thứ nhu yếu xa xỉ, đắt đỏ ở Việt Nam. Sữa bò, sữa dê dưới dạng đặc, lỏng, bột, đóng hộp hay đóng chai, có nguồn gốc rõ ràng hay không rõ ràng, nội hay ngoại. Tất cả, dĩ nhiên đều không thể thay thế nguồn sữa mẹ, nhưng lại được trọng vọng ở vị trí độc tôn, vô hình chung là nguồn khai thác béo bở cho đầu cơ buôn lậu, cho những tập đoàn lợi nhuận, và do đó tự nhiên, sữa từ lâu nó trở thành nhu yếu phẩm xa lạ đối với tất cả bà mẹ và trẻ em còi cọc Việt Nam!
Ở một góc khuất khác, ngay trong thành phố Hồ Chí Minh, lớn nhất nước, phát triển văn minh nhất nước, hàng chục các bếp ăn miễn phí từ thiện của các tổ chức xã hội bên cạnh hầu hết các bệnh viên, nổ lực giúp được muỗng cháo cầm hơi cho hàng ngàn lượt người nghèo cơ nhỡ mỗi ngày đã là vô cùng quí hóa, nói chi đến một bữa ăn đầy đủ dinh dưỡng?
  • Cây chùm ngây , năng suất và thu hoạch
3 tháng tuổi đã bắt đầu cho thu hoạch, cây cao 60cm bắt đầu cắt ngọn và mỗi tháng sau đó tỉa cành thúc đẩy cây đâm chồi, chăm sóc bón phân, sau 6 thàng tuổi, cây cao khoảng 2 mét, là thời gian bắt đầu thu hoạch chính, trung bình cây đã có thể cho từ 500gr-900gr lá tươi / cây /tháng. Nếu chỉ trồng 5000 cây/ hecta (2m2/cây), sau 6 tháng có thể thu hoạch trung bình 2500kg lá /hecta/tháng, Không mơ ước bán được với giá 70.000đồng/ kg như giá của chi Huỳnh Liên Lộc Thọ ở Xuân Lộc (Báo Đồng Nai 18/5/2008) đang bán, chỉ bán bằng giá như giá rau thông thường 20000đ/kg/ tại chợ thôi, thì thu nhập ròng tại vườn của người trồng cây chùm ngây ít nhất sẽ là 20 triệu đồng / tháng/hecta , sẽ là nguồn thu nhập đầy mơ ước đối với người nông dân Việt Nam hiện nay.
20,000 đồng rau chùm ngây mỗi ngày cung ứng đủ hầu hết lượng dinh dưỡng cần thiết cho một gia đình hai vợ chồng 2 đứa con giải quyết dứt điểm vấn nạn suy dinh dưỡng, cho những người nghèo thiết nghĩ không còn một lựa chọn nào tốt hơn trong lúc này!
Tôi tin rằng những người, những cơ quan, tổ chức quan tâm đến suy dinh dưỡng (SDD), quan tâm đến thu nhập bất thuờng thiếu đói của nguời nông dân đã có thể tìm ra lời giải đáp.
Kết luận
Rõ ràng cây chùm ngây, không chỉ là giải pháp độ sinh cho thế giới thứ ba như tổ chức lương thực thế giới (Food and Argriculture Organization) đề quyết mà còn là giải pháp ưu việt cho Việt nam chúng ta, vấn đề là làm thế nào để mọi người dân Việt Nam biết được giá trị của nó, để người nông dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng, để cây chùm ngây trở thành thực đơn hàng ngày trong mỗi bữa ăn , để những nhà sản xuất, chế biến dược phẩm của chúng ta không chỉ có mỗi một lựa chọn là mua nguyên liệu nước ngoài về dập thành viên rồi bán, và làm thế nào để phổ biến những sản phẩm của cây chùm ngây rộng khắp? tôi nghĩ, trước tiên , không ai khác hơn là các cơ quan truyền thông, báo đài, các nhà nghiên cứu, viện dinh dưỡng , cơ quan y tế và lương thực, cơ quan chức năng chuyên nghành, nhà sản xuất kinh doanh, dĩ nhiên không thể thiếu vai trò của các trường học….
Sẽ hết sức vô cảm, nếu chúng ta tiếp tục để những bà mẹ ốm yếu thiếu sữa, những trẻ em lớn lên trong còi cọc, những bệnh nhân, những người nghèo lây lất, bên cạnh cây chùm ngây, nguồn dược liệu và dinh dưỡng phong phú đã có từ lâu trên nhiều vùng của đất nước chúng ta.
Nguyễn Thành Hà / Cty Văn Kiếm Nhân
Ngày Quốc Tế thiếu nhi 01/06/2009

VẾT THƯƠNG

1. Vết thương. Ta có thường phải mang những vết thương không. Một hôm nào xắt gọt bất cẩn không chánh niệm, ta tự cắt mình một nhát, đứt tay. Một vết thương xuất hiện. Đó chỉ là một vết thương nhỏ, những vết trầy xước ngoài da. Một bà mẹ sinh con theo phương pháp phẫu thuật: một vết thương lớn. Những vết cắt trong da trong thịt. Có một loại vết thương khác trong t
im, người ta gọi là vết thương lòng. Vết thương này đau không, lâu không. Với loại vết thương không phải vết thương lòng, ta có thể chịu đựng, chịu đau, rịt thuốc một thời gian từ vài ngày đến một tuần mười bữa thì hết đau, vết thương lành. Còn vết thương lòng. Vết thương lòng thì sao. Ta chỉ đau lòng thôi, chỉ cảm thấy buồn bã, khổ sở. Nhưng tại sao ta phải đau lòng, buồn bã, khổ sở nhỉ. Như là có một cái gì không bình thường ở đây. Do đâu mà ta phải nhận lãnh vào thân vết thương lòng. Do kì vọng, ngộ nhận và lầm tưởng? Ta tưởng rằng người như thế nhưng hóa ra không phải. Ta tưởng bạn đời là thích hợp với ta nhưng hóa ra không phải. Và có lẽ vì tình cảm là món nợ lớn nhất cho nên khi đã đặt chân vào con đường đó, thì thể nào, chẳng chóng thì chày, ta sẽ phải nặng mang những vết thương lòng.
2. Một vết thương máu vẫn còn rỉ chảy. Mình có xem đó là vết thương không. Nếu mình không xem đó là vết thương. Đó chỉ là một sự bất đồng trên đường đời, một mâu thuẫn đã được đẩy lên đến đỉnh điểm, dẫn đến kết quả là to tiếng, xô xát (một sự ngược đãi về nhiều mặt). Thì bây giờ mình chọn thái độ im lặng. Im lặng và từ khước hết tất cả mọi thứ, nghĩa vụ cũng như quyền lợi. (Có cái gọi là quyền lợi ở đây không?! God!) Nuôi con là một nhiệm vụ cao cả và đầy giá trị. Sẽ cứ để cho con được ở gần cha, cho đến khi tình hình thay đổi. Còn mình, sẽ đóng cánh cửa bên đó lại, và từ từ, tập cho quen dần một thái độ mới, một thái độ phải khác hơn, như dửng dưng, “máu lạnh” hơn chẳng hạn. Ta có cái bản tâm trong sạch của ta, mà kì thực là không gì có thể làm cho dơ bẩn được, trừ khi sáu căn của ta ta để cho nó dính mắc, trôi lăn theo sáu trần. Sáu căn, sáu trần, ta sẽ nhớ rõ điều này mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút...
Còn nếu mình xem đó là một vết thương. Đó có phải là vết thương không. Vết thương ư. Vết thương thì đâu có gì khó, chỉ cần rịt thuốc vào thôi. Nhưng đây là vết thương gì và mình cần phải rịt những thuốc gì. Vết thương gây ra do sự đi quá giới hạn về bên ngoài của người bạn đời? Vết thương đã lâu về sự không hòa hợp trong tất cả mọi điều của cuộc sống, vết thương về sự bất công và không giúp đỡ? Nhiều vết thương quá. Đối với những vết thương này, ta cần phải dùng những loại thuốc nào đây. Về sự đi quá giới hạn: chấm dứt đời sống hôn nhân. Tôi là vợ chứ không phải là mẹ để cứ phải mãi đi dỗ dành anh những chuyện không đâu. Hôn nhân là một hiệp ước giữa cả hai bên. Nếu một trong hai bên phá vỡ hiệp ước thì sao, thì cứ để mặc kệ à, dễ thế, vậy người ta còn lập ra hôn nhân để làm gì. Còn những vết thương khác: chấm dứt sống chung vì như thế là bất công lắm, và không đáng phải như vậy. Nên đáng cái nào đáng hơn kia. Còn nuôi con. Thì mình cứ nuôi như bình thường. Ráng làm sao để cho con đi du học bằng học bổng. Ráng trang bị cho con kĩ năng sống và ngoại ngữ, tin học, để cho con đi vào thế giới cao rộng ngoài kia. Dạy cho con theo Phật nữa. Cho con gái con trai mua quà về thăm bà nội chúng, còn mình thì sao. Mình thì có lẽ mình sẽ chẳng bao giờ thăm thú gì nữa cả, bấy nhiêu đó đã đủ rồi, bấy nhiêu đó đã đủ chưa, God. Có những điều mình làm được nhưng mình cũng sẽ không làm, vì mình không muốn làm.
3. Buổi sáng chủ nhật. Ngồi ở đây, ở chỗ Na đang chơi theo nhóm Sói con, trong khu vườn chung đầy cây cỏ mát xanh nơi cửa ngõ ra vào thành phố bằng đường bay, trong khi Hàm đang ở nhà ngoại, mình muốn luyện kĩ năng nghe. Nghe chỉ để nghe mà thôi.Và những cái còn lại, thấy chỉ để thấy, ngửi chỉ để ngửi, nếm chỉ để nếm, xúc chạm chỉ để xúc chạm. Như vậy ý của mình sẽ tránh được tham lam sân hận và si mê, đúng không, God. Từng chiếc xe chạy qua trên con đường này. Xe máy có tiếng của xe máy, xe hơi có tiếng của xe hơi. Rồi tiếng còi. Có tiếng lớn, tiếng nhỏ. Và tiếng người xao động quanh đây. Xe cứ chạy ngang qua, hết chiếc này đến chiếc khác không dứt như nước của một dòng sông đang chảy mau về biển rộng. Có cả còi của một xe cấp cứu đang cố lướt nhanh. Cấp cứu. Cấp cứu là một trường hợp khẩn cấp, đặc biệt. Liệu mình có đang rơi vào tình trạng cấp cứu hay không. Thật tình mà nói, nếu đúng là mình đang rơi vào tình trạng cấp cứu thì cũng chẳng có ai có thể cứu được mình đâu, kể cả bạn đời. Chỉ có một người có thể cứu được, đó là chính mình. Hãy tự cứu mình bằng cách phòng hộ sáu căn. Hãy tự mang tặng chính mình bản tâm trong sạch không cấu nhiễm vĩnh hằng. Bằng cách nào đây. Thầy đã bảo rồi, bằng hơi thở, chỉ đơn giản vậy thôi. Đơn giản, nhưng có dễ không. Phải luyện đấy nhé. Theo hơi thở và giữ gìn sáu căn. Giữ hơi thở và giữ luôn bản tâm trong sạch vốn có ở mình. Rồi vượt qua tất cả chướng ngại, vượt qua tất cả chướng duyên, hoàn thành nhiệm vụ: nuôi con và dạy con thành người theo Phật.
4. Cảm xúc là một dòng sông sáu nhánh trôi chảy theo nhân duyên. Ta hãy làm sao phải biết bơi lội để vượt lên trên sáu nhánh sông chảy xiết đó mà đừng để phải bị nhấn chìm. Hãy sống đúng trong cuộc đời và đừng để cảm xúc dẫn lôi mình đi, đừng bao giờ để mình trở thành nô lệ của cảm xúc. Hãy vững bước đi nhanh trên con đường chân lí, bỏ hết những gì không cần làm nặng túi hành trang, làm chậm bước chân mình.
Chúc bạn thành công.
Phương An

VỀ CHÙA

Về chùa kính Phật trọng Tăng
Lắng nghe lời pháp dạy răn của Thầy
Nghĩa ân như bát nước đầy
Khuyên ai gắng giữ, phước dày mai sau
Mình là con Phật thanh cao
Chắp tay thưa thỉnh vái chùa lễ nghi
Nói năng, dáng đứng, cách đi
Sao cho điềm đạm, oai nghi chỉnh tề
Chùa là tổ ấm ta về
Chung tay vun đắp chẳng nề hà chi
Công phu, công quả, hộ trì
Già lam hưng thịnh, phước gì lớn hơn?
               Sa môn Thích Minh Quang

ĐỨC GIÁO CHỦ CÕI SA BÀ - THÍCH CA MÂU NI PHẬT

Đạo Phật là đạo Từ Bi Hỷ Xả, cứu khổ giải thoát và Trí Tuệ giác ngộ bình đẳng với mục đích làm lợi ích an lạc cho chúng sinh, nhân loại là mục tiêu chính.
Từ bi hỷ xả: Thương yêu chúng sinh, mang lại cho họ niềm an lạc vui sướng gọi là TỪ. Đồng cảm nỗi khổ và thương xót chúng sinh, trừ bỏ nỗi khổ cho họ gọi là BI. Đây là 2 trong 4 vô lượng tâm. (Đại Từ Đại Bi thương chúng sinh). Từ còn có nghĩa là hiền lành, phúc hậu, bỏ các điều dữ, làm các việc lành, nhân đức, ăn ở có hậu. HỶû là vui mừng, thường vui vẻ đối với tất cả mọi người; mình làm được điều gì tốt hay thấy người khác làm được các việc lợi ích, tốt đẹp đều lấy làm vui mừng. XẢ là dứt bỏ, dứt bỏ những chuyện thị phi, ác độc, không tốt, không hợp với nhân nghĩa, đạo lý, cần phải cương quyết dứt bỏ, không lưu tâm phiền não. (Đại Hỷ Đại Xả cưú muôn loài)
“Thiện căn ở tại lòng ta, chữ Tâm kia mới bằng ba chữ tài”.

Cứu khổ giải thoát: Cứu gỡ cả cho mình và cho người cùng được thoát khỏi những cảnh khổ đau, phiền não, thấy người khác đau khổ, uất ức bị chèn ép mình cũng phải chia sẽ cảnh hoạn nạn đó. “Thương người như thể thương thân”. Tìm mọi cách để cứu vớt người ta được thoát khỏi cảnh đau khổ đó, mọi người đều được giải thoát lìa bỏ mọi trói buộc mà được tự tại về cả vật chất đến tinh thần.

Trí Tuệ Giác Ngộ: (thuật ngữ) Janàma, Prajnà. Tiếng Phạn Nhã-na dịch là Trí, Bát Nhã dịch là Tuệ. Quyết đoán là Trí, Tuyển chon là Tuệ. Còn chỉ biết rõ Tục đế gọi là Trí, sáng tỏ Chân đế gọi là Tuệ. Đại thừa nghĩa kinh, Q.9: Chiếu kiến gọi là Trí, sáng tỏ gọi là Tuệ. Các kinh điển và tất cả các pháp môn của đức Phật để lại không ngoài mục đích làm cho chúng sinh có một trí tuệ sáng suốt, hầu thích ứng với mọi hoàn cảnh trong cuộc sống hàng ngày và nhất là mỗi người đều thoát ra khỏi cảnh mê lầm (vô minh), không mê tín dị đoan, không chạy theo tà ma ngoại đạo. Chủ yếu của đạo Phật là dậy chúng sinh giải thoát mọi khổ đau, muốn được giải thoát phải xây dựng trên nền tảng giác ngô. Trước phải giác ngộ sau mới giải thoát. Nhận rõ lý nhân qủa và lý nhân duyên đó là tác dụng của trí tuệ.

Sự giải thoát chỉ đạt được trong sự giác ngôï hoàn toàn với lòng từ bi vô lượng. Sự giác ngộ chính là sự phát triển tột đỉnh của trí tuệ, là sự hiểu biết toàn diện. Tâm trí con người bị vô minh phiền não che lấp không nhìn thấy bản tính chân thật của sự vật, sự việc, đã vô minh thì không phân tách được cái nào đúng, cái nào sai, ai nói cũng phải, cái nào cũng hay, không nhạy bén và thích ứng kịp thời được những sự việc khi xẩy đến, đó là con người không có trí tuệ. Nếu còn vô minh thì làm sao có trí tuệ. Nhưng nếu chỉ có trí tuệ mà không có Từ Bi thì cũng vô ích con người ấy sẽ đi đến chỗ tự tôn, tự cao, tự đại dễ làm những điều ác. Do đó, từ bi mà không có trí tuệ là từ bi què mà trí tuệ mà không có từ bi là trí tuệ mù.

Tâm trí của con người bị vô minh phiền não che lấp, không nhận chân được thế nào là sự thật thì đó chính là nguyên nhân đưa đến sự đau khổ. Sự khổ đau đó chỉ chấm dứt khi nào tâm con người được trong sáng, không còn ngộ nhận, không còn chấp ngã. Quá trình tu tập để phát triển trí tuệ, làm sáng cái đức sáng, thân với nhân tâm thì đạt được hạnh phúc. Tham vọng ích kỷ được chuyển hoá thành vị tha, hận thù được chuyển hoá thành từ bi, mê muội được chuyển hóa thành trí tuệ. Trong quá trình chuyển hoá đó nội tâm được gạn lọc. Những cặn bã vô minh được tẩy trừ, để tâm trí hoàn toàn trong sáng. Đó chính là cao điểm của trí tuệ và sự giác ngộ vậy.

Bồ Tát Quan Thế Âm, trong kinh Phổ Môn, với hạnh nguyện cứu khổ, cứu nạn cho chúng sinh, ngài lắng nghe tiếng kêu đau thương của chúng sinh để thị hiện cứu độ. Nơi nào có tiếng kêu đau thương nơi đó ngài thị hiện. Bồ Tát Quan Thế Âm đã phát nguyện “Khi nào trong chúng sinh không còn đau khổ, lúc đó ngài mới nhập niêt bàn”. Trong kinh Địa Tạng Bồ Tát phát nguyện xuống địa ngục để cứu độ chúng sinh với đại nguyện: “Địa ngục vị không thệ bất thành Phật, chúng sinh vị tận phương chứng Bồ Đề”. (Khi nào địa ngục chưa trống hết thì tôi chưa thành Phật, lúc nào chúng sinh chưa khỏi luân hồi thì tôi chưa chứng Bồ Đề). Với đại nguyện đó Bồ Tát Địa Tạng đã xông pha vào các tầng địa ngục để cứu vớt chúng sinh.

Trong khi đó, từ quá khứ cho đến hiện tại đã có những tôn giáo mệnh danh là các đấng tối cao, thần thánh hóa cá nhân tạo ra những giáo điều để mê hoăïc con người thiếu trí tuệ vẫn phó thác thân xác và tâm linh cho một vị thần thánh nào đó được tôn sùng như một vị thiêng liêng tối thượng, có phép lạ mầu nhiệm cứu rỗi và cứu vớt linh hồn được về thiên đàng khi nhắm mắt ngàn thu. Những giáo điều mê hoặc con người đi đến chỗ cuồng tín vào thần quyền, tự xiềng xích mình vào địa ngục của hoang tưởng đó. Sự cuồng tín tôn giáo đã làm cho con người thù hận con người thay vì thương yêu nhau như các giáo chủ đã dậy.

Hãy nhìn lại các cuộc thánh chiến đã xẩy ra tàn khốc giữa Thiên Chúa Giáo với Do Thái Giáo và Hồi Giáo đã kéo dài hơn ngàn năm, cuộc tàn sát đẫm máu giữa Thiên Chúa và Tin Lành kéo dài hàng trăm năm tại Âu Châu. Ngày nay tại Bắc Ái Nhĩ Lan cuộc xung đột giữa các tôn giáo này vẫn còn đang tiếp diễn. Sự tranh dành ảnh hưởng về tín ngưỡng đó chỉ vì “Con người không được giáo dục bởi lòng Từ Bi và Trí Tuệ”, mà chỉ nhồi sọ cho các tín đồ của họ có một niềm tin mê tín, cuồng tín vào một đấng tối cao của tôn giáo họ thờ phượng.


Phật Giáo đã tự hào suốt giòng lịch sử trên hai ngàn năm trăm năm, trước Thiên Chúa giáng sinh gần 600 năm cho đến nay chưa bao giờ đổ một giọt máu vì nhân danh tín ngưỡng Phật Giáo. Lúc Hồi Giáo tàn sát Phật Giáo tại Ấn Độ vào thế kỷ thứ mười hai, Chư Tăng và Phật Tử cam tâm chịu chết chứ không chống trả, một số khác chạy trốn ra nước ngoài để rồi đạo Phật truyền ra khắp phương Đông. Ngày nay Phật Giáo bị bách hại tại các nước phương Đông, thế rồi Phật Giáo lại lan tràn khắp phương Tây. Từ ngày Phật Giáo xâm nhập được vào Phương tây thì các nhà trí thức và khoa học gia phương Tây mới nghiên cứu ra được những gì khoa học hiện nay khám phá ra chỉ là đi sau những gì mà Đức Phật đã nói ra từ mấy ngàn năm trước.

Con người với TÂM, THÂN thiện và ác, nếu được giáo dục bởi lòng Từ Bi thì con người có tâm thiện và nếu được giáo dục bởi sự hận thù tranh chấp cuồng tín thì con người sẽ trở nên hung dữ và độc ác, đức Khổng tử đã nói “Nhân chi sơ là tính bổn thiện” hay Nho Giáo cũng có câu “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng” (mực đây là mực tầu để viết chữ nho). Đức Phật ra đời như một thách đố của con người với thần linh và sự thành đạo của Ngài như một sự trưởng thành của tâm thức nhân loại. Ngài đã siêu việt hoá khả năng vô biên của tâm linh để con người từ nay vĩnh viễn làm chủ vận mệnh của mình. Với nỗ lực của chính mình con người tự giải thoát mình ra khỏi sự đau thương cả vật chất lẫn tinh thần.

Nếu diễn đạt hết ý của bốn chữ “Từ Bi và Trí Tuệ” phải viết cả một quyển sách khoảng 500 trang giấy chưa đủ. Trong phạm vi bài này tôi chỉ tóm lược với đại ý.

Mục đích của đạo Phật là lấy từ bi và trí tuệ làm kim chỉ nam cho việc tu tập hầu mở mang trí tuệ mới đi đến giác ngộ, có giác ngộ mới không mê lầm, không u minh. Chủ đích của đạo Phật là khuyên dậy và đào tạo cho con người thoát khỏi cảnh Vô Minh, lúc đó con người mới nhận thức được đâu là chính và đâu là tà, để tránh những cảnh lừa gạt bởi các giáo điều mê tín, dị đoan làm cho con người cuồng tín chỉ biết cầu xin, với đấng tối cao hão huyền nào đó.

Đức Phật đã cho chúng ta thấy rằng: chỉ có chính mình mới giải thoát được cho mình ra khỏi nỗi thống khổ, không một thần linh nào có thể thay đổi được vận mạng của con người do chính mình tạo ra. Đạo lý về Nghiệp (nghiệp báo) đã thấy rõ, làm ác thì phải gặp quả báo. Sự hạnh phúc hay khổ đau là do chính mình tạo ra, đừng bao giờ nghĩ đến việc đi cầu xin, van vái các đấng tối cao hoặc thần thánh nào đó để hy vọng được sự cứu rỗi hay phù hộ cho mình được thoát khỏi cảnh lầm than, đau khổ mà do chính mình đã tạo nên. Con ngưởi phải làm chủ lấy vận mạng của mình. Vì mê lầm chúng ta tự tạo ra một thần linh
hủ lấy vận mạng của mình. Vì mê lầm chúng ta tự tạo ra một thần linh để rồi trở lại nô lệ cho một thần quyền ảo tưởng đó./.