Thứ Năm, 16 tháng 2, 2012

TIỂU LUẬN LỊCH SỬ PHẬT GIÁO TRUNG QUỐC (MINH GIẢI)

A. DẪN NHẬP
1. Lý do chọn đề tài
Chúng ta có thể xem Phật giáo như một thực thể văn hóa, tôn giáo sống động góp phần tạo ra văn hiến, văn minh cho nhân loại thì chính vì lý do này đã khiến Phật giáo có nhiều khuôn mẫu, hình thái rất khác nhau trong mỗi thời đại lịch sử và ở mỗi quốc gia khác nhau. Và Phật giáo là được xem là một tôn giáo nhập thế với dân tộc, của mỗi nước có một nghệ thuật du nhập khác nhau, nhưng tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên là không thể thiếu. Do vậy, việc tìm hiểu lịch sử Phật giáo Trung Quốc giúp chúng ta rất nhiều trong việc nghiên cứu lịch sử Phật giáo cũng như những giá trị bài học trong thực tế. Cho nên con xin được chọn đề tài: “Những sự kiện du nhập Phật giáo Trung Quốc”.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Bắt đầu từ cội nguồn đất nước Ấn Ðộ, Phật giáo đã theo dòng thời gian truyền đi khắp nơi. Cách đây hơn 2000 năm, Phật giáo đã có mặt tại Trung Quốc. Và hiện này có rất nhiều tác giả giới thiệu về quá trình phát triển Phật giáo tại Trung Quốc. Trên phương diện tổng quát, quá trình du nhập - phát triển của Phật giáo Trung Quốc có liên hệ mật thiết với lịch sử phát triển Phật giáo của các nước trong khu vực.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Trong quá trình làm bài có một số hạn chế nên con xin được trình bày trong phần những sự kiện khi Phật giáo du nhập vào Trung Quốc. Khi làm con dựa vào giáo trình của Đại Đức Thích Minh Nhẫn và một số tài liệu của các tác giả có liên quan đến đề tài. Đồng thời kết hợp các phương pháp luận hay so sánh để làm rõ vấn đề thấy được những giá trị bài học để ứng dụng trong hoằng pháp. Trong quá trình làm không sao tránh những sơ sót của một Tăng sinh mới tu học nên mong được sự chỉ dạy và góp ý của giáo thọ để bài làm lần sau được nhiều giá trị lợi ích hơn.
 B. NỘI DUNG
I. Bối cảnh lịch sử lúc bây giờ của Trung Hoa
Trước khi Phật giáo nhập vào Trung Hoa thì có những diễn biến như sau: Chúng ta biết đạo Phật ở Ấn Ðộ trưởng thành được truyền theo hai hướng đó là Nam truyền và Bắc truyền. Nói đến Bắc truyền thì chúng ta biết đến đó là Trung hoa có ảnh hưởng quyết định và có quốc độ quy mô nhất. Và để tìm hiểu lịch sử của sự phát triển Phật giáo Bắc truyền thì nhất định phải nghiên cứu sự phát triển, sự thăng trầm của đạo Phật Trung hoa. Từ khi đạo Phật mới du nhập vào cái số lượng người đông đảo nhất thế giới này cho đến thời cận đại[1].
Về mặt địa lý, Phật giáo đã theo chân các nhà sư truyền giáo Phạm Tăng được truyền đến Trung Quốc theo hai đường là đường bộ và đường thủy. Về đường bộ, chủ yếu là hai con đường giao thông lớn đó là phía Bắc và phía Nam của các nước Tây vực. Sau này giữa hai con đường trên có một con đường: “Nhập Trúc cầu pháp” của ngài Pháp Hiển. Về đường thủy thì chủ yếu là từ các hải cảng ở tỉnh Quảng Ðông[2].
Theo các sách sử còn truyền lại, thì dân Trung hoa đã có nghe nói đến đạo Phật lâu lắm và rải rác rong dân chúng ở phía Tây, đã có người đã theo đạo Phật rồi. Hưng mãi đến đời nhà Ðông hán, niên hiệu Vĩnh Bình năm thứ 11 (67 TL) Vua Minh Ðế sai các ông Vương Tuân, Thái Hâm, cả thảy 18 người qua nước Ðại Nhục Chi, một nước ở phía Tây, trên đường từ Ấn Ðộ sang Trung Quốc để rước Phật về thờ và có mời được hai vị sư là Ca-Diếp Ma Ðằng và Trúc Pháp Lan qua Trung hoa. Vua Hán Minh Ðế truyền dựng chùa Bạch Mã để thờ Phật và cho hai Ngài ở đó dịch kinh truyền Ðạo. Hai Ngài đã dịch kinh Tứ Thập Nhị Chương và mười sáu quyển kinh khác. Phật Giáo được thừa nhận ở Trung Quốc, được xây chùa, dịch kinh được bắt đầu từ đó. Dần dần đạo Phật càng bành trướng và càc nhà truyền Ðạo từ Tây vứt lục đục kéo sang Trung Quốc, trong đó có những bậc nổi tiếng nhất là Ngài An Thế Cao, Chi Lâu Ca Sấm, Chi Diệu, Trúc Phật Sóc. Số kinh chữ Phạn dịch ra chữ Hán trong thời kỳ sơ khởi này chúng đã lên đến 300 quyển[3]
Trung Quốc là một trong những quốc gia có nền văn minh cổ xưa nhất của nhân loại. Nó không chỉ độc đáo bởi chính sự hiện diện lâu đời, mà còn tác động đến sự hình thành và phát triển màu sắc văn hóa của nhiều quốc gia trên thế giới. Tất nhiên, trong suốt chiều dài lịch sử tồn tại và phát triển, văn minh Trung Hoa cũng tiếp xúc với nhiều nguồn văn minh của thế giới. Chính sự tương tác qua lại giữa chúng đã làm cho văn minh Trung Quốc trở nên phong phú và đa dạng. Ảnh hưởng nổi bật và sớm nhất của nguồn văn hóa bên ngoài đối với Trung Hoa cổ đại là sự giao thoa giữa hai nền văn minh tầm cỡ của thế giới, tức Ấn Độ và Trung Hoa. Có thể nói rằng sự hiện diện của Phật giáo trong vùng đất rộng lớn và đông cư dân này đã mở ra một bước ngoặt mới trong quá trình tồn tại và phát triển của Trung Hoa, nơi mà nền văn minh của đất nước này đã định hình hơn 1.500 năm trước đó. Trong khi ấy, nhiều thổ dân nằm trong sự kiểm soát của Hán triều sinh sống nơi vùng đất hoang vu rộng lớn ở phía Nam, dọc theo bờ sông Dương Tử và vùng hạ lưu của nó. Thuộc địa của người Hán kéo dài tận Bắc Đông Dương. Phía Tây và Tây Bắc của đế chế Trung Hoa là vùng sa mạc và đất đai hoang vu, nhưng triều Hán đã có ý đồ mở mang bờ cõi đến tận dải đất này bằng cả chiến tranh lẫn ngoại giao. Vạn Lý Trường Thành là mốc điểm phân chia lãnh thổ nhà Hán ở phía Bắc với một số nước thù địch. Nhà Hán cũng thiết lập một vùng thuộc địa trên tận vùng Đông Bắc của nó, gần với thủ đô Bình Nhưỡng ngày nay của Bắc Triều Tiên. Đối với Trung Hoa, tôn giáo lại có một vai trò vô cùng quan trọng trong lịch sử tồn tại và phát triển của nó. Từ nguyên thủy cho đến ngày nay, Trung Hoa luôn là một quốc gia có nhiều tôn giáo, từ loại tôn giáo bán khai cho đến tôn giáo cao cấp nhất. Trong xã hội nguyên thủy, Trung Quốc là một quốc gia theo học thuyết đa thần, vì lúc ấy chưa có một loại thần nào được quan niệm là chủ tể, lãnh đạo tối cao toàn thể thiên nhiên và xã hội. Song hành với các loại tín ngưỡng là sùng bái tổ tiên. Đây là một truyền thống thiêng liêng lâu đời có nguồn gốc từ quan niệm máu mủ, gia đình. Ban đầu, việc thờ cúng tổ tiên là nhằm củng cố quan hệ huyết thống, bảo đảm quyền thừa kế tài sản và phân phối quyền lợi. Dần dần khái niệm này phát triển thành tín ngưỡng thiêng liêng, đặc biệt trong xã hội nô lệ và phong kiến. Sùng bái tổ tiên được giai cấp lãnh chúa phong kiến triển khai mạnh mẽ để củng cố chế độ tông pháp. Họ khéo kết hợp chế độ tông pháp với việc thờ cúng tổ tiên thành một loại hình tôn giáo mang đặc tính Trung Quốc với nền tảng cốt lõi là “thần thánh không hâm hưởng thì không cùng loại, dân không tế tự thì không cùng tông tộc”. Quan niệm này về sau trở thành tư tưởng đạo đức chủ đạo của người Trung Hoa với sự hệ thống hoá về triết lý cũng như tổ chức và được gọi là “Đạo gia tiên hay Thờ cúng ông bà. Phật giáo với tinh thần tuỳ duyên bất biến, bất biến tuỳ duyên của mình và Phật giáo đã truyền nhập vào Trung Quốc dung hoà với Nho học, Huyền học và triết học của Đạo gia mà tồn tại. Trên tinh thần này, Phật giáo Trung Quốc đã tuỳ theo hoàn cảnh của địa phương mà tạo cho Phật giáo này thể hiện một nét riêng biệt”[4].
Trung Quốc xuất phát từ “Trung Quốc Phật giáo hoá”. Vì thế nên khi nói đến truyền thống tôn giáo của Trung Quốc là phải nói “Văn hóa truyền thống của Trung hoa đó là Nho học, Đạo học, Thích học” Ở đây chúng ta thấy không nói đến Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo là vì có người nhận thấy điều đó là một nền triết học, một lối sống tốt đẹp, một đặc thù văn hóa của Trung Hoa[5].
Tại vùng Lạc Dương, tỉnh Hà Nam, Trung  Quốc có Chùa Bạch Mã được tạo lập sớm nhất trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc. Chùa Bạch Mã có kiến trúc xây dựng thời Minh Ðế đời Ðông Hán (58 TL) về lịch sử ước chừng trên 1900 năm. Bây giờ vẫn còn ở tại vùng đất cách thành Ðông huyện Lạc Dương 25 dặm Trung Hoa. Nơi đó là thắng địa của người cúng lễ sùng bái và du ngoạn. Học nhơn đã thận trọng khảo chứng ngôi chùa đó, ghi lại để kỷ niệm vùng đất phát khởi tốt đẹp mở đầu cho sự du nhập Phật giáo Trung Quốc.[6] Quá trình diễn biến bối cảnh lịch sử Phật giáo Trung Quốc được biểu hiện qua nhưng vấn đề nêu trên. Để cho quá trình du nhập Phật giáo này được cụ thể hoá và chi tiết hơn. Con xin được trình bày tiếp phần những sự kiện sơ nhập của Phật giáo Trung Hoa.
II. Những sự kiện sơ nhập Phật giáo Trung Hoa
Để biết được những sự kiện du nhập giáo vào Trung Hoa, con xin được trình bày niên đại du nhập để biết được sự kiện nào chủ yếu. Qua nghiên cứu niên đại thì người ta nhận định có hai thuyết mang tính thuyết phục và đầy đủ dự kiến dẫn đến sự du nhập Phật giáo Trung Quốc đó là: thuyết Khẩu truyền Phật giáo của Y Tồn được chép trong sách Ngụy thư Thích Lão Chí và thuyết Niên hiệu Vĩnh Bình năm thứ 10 (67 TL) chép trong sách Hậu Hán Kỷ và sách Phật Tổ Thống Kỷ. Theo thuyết thứ nhất thì Phật giáo được biết đến ở Trung Quốc sớm nhất cũng từ năm thứ 2 trước Tây lịch (niên hiệu Nguyên Thọ năm đầu, đời vua Ai Ðế nhà Tiền Hán). Theo thuyết thứ hai thì Phật giáo có mặt ở Trung Quốc từ năm 67 Tây lịch (niên hiệu Vĩnh Bình năm thứ 10, đời vua Minh Ðế nhà Hậu Hán). Từ hai thuyết trên, có thể nói Phật giáo được truyền vào Trung Quốc rất sớm, chủ yếu là theo hai con đường thủy và bộ từ phía Bắc và phía Nam của các nước Tây vực vào thế kỷ đầu Tây lịch nhưng do chưa đủ nhân duyên nên đến thời Hán Minh Đế mới công nhận sự phát triển cao[7].
 Thuyết thứ nhất:  “Hán Minh Đế cầu pháp” được sử liệu ghi nhận sớm nhất là quyển “Tứ Thập Nhị Chương” và “Mâu Tử Lý Hoặc Luận”. Sách kể rằng vào một đêm Vĩnh Bình năm thứ bảy (TL 64), Hán Minh Đế ngủ tại Nam cung mộng thấy một vị thần kim thân sắc tướng, thân cao trượng trên đầu có hào quang chiếu sáng cả một vùng trời. Thuyết này được xem là mang tính truyền thống và đã được công nhận từ trước đến nay. Cho dù Phật giáo Trung Hoa có kỷ niệm 2000 năm Phật giáo du nhập xem sự kiện Y Tồn khẩu thọ “Phù Đồ Kinh” là chính, nhưng không bằng sự kiện của Hán Minh Đế nằm mộng vì được nói trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương: “Sau cơn nằm mộng, Hán Minh Đế thăng triều hỏi các quan thần và nghe được sự giải thích. Hán Minh Đế liền hạ lệnh Tưởng Thái Âm. Đại thần tiến sĩ Vương Đạo và 18 người tùy tùng xuất thành cửa Tây sang Thiên Trúc lạy Phật thỉnh Kinh theo Châu Thứ Di Ký. Khi đoạn thỉnh Kinh đi đến nước Đại Nguyệt Dần (nay là Afghanistan) gặp được hai vị cao tăng Ấn Độ là Ngài Nhiếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan đang trên đường đi du hóa, truyền thừa Phật Pháp. Năm ấy là năm Vĩnh Bình thứ mười (67 TL). Đoàn thỉnh Kinh liền thỉnh hai vị cao Tăng về kinh diện kiến Hán Minh Đế. Hai vị dùng Bạch mã vận chuyển tất cả hành lý, kinh sách và tượng Phật về đến Kinh đô. Hai vị đã dâng lên Hán Minh Đế một tượng Phật Thích Ca Mâu Ni và quyển kinh Tứ  Thập Nhị Chương để vua tôi cùng chiêm bái”[8].
 Thuyết thứ hai: Y Tồn khẩu thọ “Phù Đồ Kinh” được sử liệu ghi nhận sớm nhất là trong bộ “Tam Quốc Chi”. Sách ghi rằng: vào năm Tây Hán Ai Đế Nguyên Thọ nguyên niên (năm thứ hai trước Công Nguyên) sứ giả của nước Đại Nguyệt Chi là Y Tồn đã khẩu thọ cho Phù Đồ kinh (Phù Đồ chính là Phật Đà, hay là kinh Phật) cho tiến sĩ Cảnh Lô (người Hán).
Nhận thấy con đường để giao lưu về kinh tế và văn hoá giữa Trung Tây là đường Tơ Lụa. Bấy giờ Tiến sĩ Cảnh Lô giao lưu văn hoá tại Tây Vực. Từ đây xuất hiện những trang sử liệu rõ nét về vấn đề sơ nhập Phật giáo Trung Hoa được ghi nhận trong bộ “Tam Quốc Chí” là sứ giả Y Tồn của nước Đại Nguyệt Chi khẩu truyền “Phù Đồ Kinh” cho tiến sĩ Cảnh Lô. Vấn đề này được diễn ra vào năm Tây Hán Ai Đế Nguyên Thọ nguyên niên tức vào trước Công Nguyên 2 năm. Đây chính là móc lịch sử lớn về sự kiện sơ nhập Phật giáo Trung Hoa (Phật Lịch 542 năm)[9].

      Sau hai ngài Ca Diếp Ma Ðằng và Trúc Pháp Lan, được sự ủng hộ của Sở Vương Anh - người em khác mẹ của Hán Minh Ðế, nhiều vị Tăng và cư sĩ người Ấn khác cũng tới Trung Quốc và tiếp tục các công trình phiên dịch kinh điển từ tiếng Phạn (chủ yếu là Bắc Phạn, Sanskrit) sang Hán ngữ như Ngài Trúc Phật Sóc, cư sĩ An Huyền - người nước An Tức, ngài Ðàm Quả người Tây vực... Nổi bật trong số đó là các Ngài An Thế Cao và Chi Lâu Ca Sấm, đến Trung Quốc vào đời vua Hoàn Ðế cuối đời Hậu Hán. Ðặc biệt, có Ngài Nghiêm Phật Ðiều là vị tu sĩ người Trung Quốc đầu tiên tham gia vào công trình phiên dịch kinh điển. “Phật giáo đã dần dần được phổ cập trong dân gian và tương truyền Sở Vương Anh là người tin đạo Phật đầu tiên. Sở Vương Anh là em khác mẹ của Minh Đế. Sách ‘Hậu Hán Thư’ chép: Sở Vương Anh là người tin đạo Phật trước tiên, nhân thế mà nhiều người bắt đầu tin theo”[10].
Để nhận định giá trị ứng dụng của tư tưởng Phật giáo về sự kiện du nhập Phật giáo vào Trung Hoa. Thì chúng ta nhận thấy Phật giáo du nhập vào Trung Quốc rất sớm, nhưng đến thời nhà Hậu Hán mới phát triển mạnh, để nói lên khi đầy đủ nhân duyên mới thành tựu phát triển được. Vì hai Ngài Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan là những người học rộng, nhớ lâu và rất nghiêm trì giới luật, thông hiểu kinh điển, Ngài Ca Diếp Ma Đằng trong khi đi giáo hoá thường tụng kinh “Kim Quang Minh Kinh”. Hai vị đều đi giáo hoá gặp ông Thái Hầm nhưng cùng gặp nhau và đem Phật giáo truyền vào Trung Quốc.
“Khi hai vị đến Trung Quốc, vua Minh Đế  nhà Hậu Hán rất tôn kính và hậu đãi, vua sai dựng chùa Bạch Mã, là ngôi chùa được cất đầu tiên ở Trung Quốc, để hai Ngài phiên dịch kinh điển. Vua lại sai thợ vẽ hình tượng đức Thích Tôn do bọn ông Thái Hâm mang về, để thờ tại đài Thanh Lương”[11].
Qua những sự kiện du nhập này chúng ta đã nhận thấy được chỗ giá trị ứng dụng bài học của tư tưởng Phật giáo. Để vận dụng vào đời sống tu học, cũng như những kinh nghiệm để ứng dụng vào công cuộc hoằng hoá độ sanh gồm những phần sau: Thứ nhất là hợp thời đủ nhân duyên biểu hiện là phải đợi đến thời vua Minh Đế mới phát triển Phật giáo, để nói lên vấn đề đủ duyên mới thành tựu được. Thứ hai là nói lên tính khế cơ, khế lý hay tuỳ duyên bất, bất biến tuỳ duyên của nhà Phật. Nhờ đó mà Phật giáo đã chiếm được vị trí lớn vào văn hoá bản địa ở Trung Quốc, thời điểm đó Trung Quốc có nhiều tôn giáo và tín ngưỡng. Để làm rõ những giá trị hữu ích du nhập của Phật giáo. Con xin được thể hiện khả hiểu biết non kém của mình để trình bày nhận định những giá trị của Phật giáo du nhập trong công cuộc phát triển tu học và hoằng pháp lợi sinh. Tuy sự hiểu biết còn hạn hẹp, nhưng cũng cố gắng thể hiện để làm sáng tỏ những giá trị này. Hầu đem lại kinh nghiệm cho chính mình, cũng như có thể đem một phần nào bài học để nhắc nhở cho người ứng dụng vào việc hành trì tu học và hoằng pháp.
III. Nhận định giá trị và ứng dụng trong thực tế về sự kiện sơ nhập
1. Các pháp do nhân duyên
Chúng ta biết chuyện của vua Hán Minh Đế nằm mộng kể về Phật thấy kim thân sắc tướng của Phật. Ngài đã hỏi các vị đại thần trong cung đều biết đến Phật,  nhưng chỉ biết Phật là vị thần thông hay thần linh thôi. Vì họ chưa giác ngộ, chưa có khái niệm Phật thế nào, chỉ phát triển thần linh. Đến thời Lưỡng Tấn  mới phát triển Huyền Học, chủ yếu là tín ngưỡng tôn giáo bản địa:  Đạo giáo là luyện đơn để sống được trường sinh bất tử. Vì thời Tần Thuỷ Hoàng có bao nhiêu lần đều tìm thuốc trường sinh, nên không có khái niệm đức Phật là bậc giác ngộ trí tuệ mà xem Phật là vị đại thần linh. Cho nên nghe các vị đại thần nói lại đức Phật thì lập tức nghĩ đến đức Phật là thần thông biến hoá, nên đã biến hoá đến cung điện của Hán Minh Đế và xay ra chuyện nằm mộng. Nhưng vấn đề chúng ta cần thấy ở chỗ: do đâu mà các quan đại thần biết, để khi nghe nói đến là biết đây là một vị thái tử bỏ ngôi vua để xuất gia, biết được đức Phật. Chúng ta liên hệ đến chuyện Phật giáo du nhập vào Việt nam qua các đoàn thương buôn, khi các vị truyền đến đâu thì họ đều truyền bá những tư tưởng văn hoá của Phật giáo. Cho nên ta cũng suy đoán là trước đó cũng có các vị đại thần đã từng đi xứ sang các nước phương Bắc (Tây Vực). Và lúc bây giờ có Tiến sĩ Cảnh Lô đi xứ và tiếp xúc Ngài Y Tồn. Ngài Y Tồn nói lại cho Ngài Cảnh Lô nghe về đức Phật, chuyện Y Tồn khẩu thọ Phù Đồ Kinh là xảy ra trước Công Nguyên năm thứ 2 (69 năm). Thì từ đó chắc chắn Ngài Cảnh Lô sẽ về kể lại cho các quan đại thần nghe rõ những đức tín cao quý của về Phật. Nên trong họ đã có nhận thức và biết được thông tin về đức Phật, cho nên chuyện của Hán Minh Đế nằm mộng họp lại và được các quan đại thần chấp nhận có thông tin về đức Phật. Vào thời Trung Quốc khi vua hỏi thì không ai dám nói sai vì sợ chặt đầu, nên ở Hán Minh Đế nói ra cũng không ai dám trả lời sai mà chuyện này các đại thần đã nghe qua rồi. Và sự việc Tiến sĩ Cảnh Lô khi tiếp xúc Ngài Y Tồn thì chắc chắn Ngài Y Tồn sẽ nói rất nhiều về những chuyện thần thông biến hoá hay thần linh của Phật vì Ngài Y Tồn biết Tiến Sĩ Cảnh Lô thiên về thần linh, đây là trường hợp khế cơ, khế lý của Phật giáo. Thì lúc này triều đại Hán Minh Đế (Đông Hán), chắc chắn mời  gọi về gắp và xem đức Phật là một thần linh. Chúng ta biết tại sao đến thời Hán Minh Đế nằm mộng Phật giáo mới phát triển và chuyện này được nói trong bộ kinh Tứ Thập Nhị Chương, kinh này đã có từ lâu và chuyện Y Tồn khẩu thọ Phù Đồ Kinh đã có cách đây 69 năm trước Hán Minh Đế, nhưng không ai biết hết về chuyện này. Vấn đề này chúng ta cũng dễ hiểu là vì muốn Phật giáo phát triển thì phải đủ duyên, dù trước đó có phát triển nhưng chỉ mới truyền khẩu thôi vì chưa có Tam bảo và đến Hán Minh Đế nằm mộng Phật giáo mới phát triển. Đến thời điểm này nhân duyên đã hội đủ và thành tựu nên thông tin về đức Phật đa được các quan đại thần biết đến. Lúc đó vua nghĩ ngay đến Phật là một vị thần linh và Hán Minh Đế đã gặp được hai vị Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan là hai vị tu hành của Ấn Độ sang truyền đạo. Nhân dịp Hán Minh Đế nằm mộng xảy ra thì trong dịp đó Vua đã cho thỉnh hai vị về làm các việc như: dịch kinh, nói pháp. Nhờ đó mà mọi người hiểu biết sâu rộng về Phật pháp hơn. Từ đây chúng ta có nhận định rằng: Phật giáo phát triển khi đầy đủ nhân duyên là phải có đủ Tam Bảo. Thời đức Phật chưa có Tăng mà hoá độ được là vì Ngài có oai đức và công hạnh rất cao, nên đầy đủ duyên mới hoá độ được hai vị cư sĩ đầu tiên vào thời điểm sau Phật thành đạo. Nhận định rằng Phật giáo muốn đi vào công chúng, cũng như tạo uy tín và sự thu hút nhiều người trong xã hội ngày nay thì trước tiên phải trang bị cho mình một đời sống xuất gia nghiêm túc, chứ lo phát triển hình thức hoằng pháp mà quên lo tu tập, không nhìn lại tự chính mình có thanh tịnh trang nghiêm chưa. Vì một người khi chưa đầy đủ giới đức, kinh nghiệm tu tập thì khi ra làm đạo tuy có giỏi nhưng không có năng lực tu, không có chánh niệm và định được, thì khó mà nghiêm túc và khéo léo giáo hoá. Cho nên muốn tạo niềm tin chúng ta phải tự thân tu tập, trang bị đầy đủ giới đức, kinh nghiệm tu tập. Và ngày nay cần phải có trình độ chuyên môn để làm Phật sự, chúng ta có giỏi mà không biết dụng tu thì dù ta có làm bao nhiêu việc cũng khó thành công dễ bị ngũ dục chi phối, tăng bản ngã và sở chấp. Mà đạo Phật là đủ duyên mới thành tựu, nghĩa là ta phải có nhân tích luỹ tu hành đúng theo tinh thần Phật giáo là tu tập, nhận được chỗ chơn lý giác ngộ, tâm vững vàng rồi thì mới ra giáo hoá. Sự kiện Hán Minh Đế nằm mộng mà được nhiều người biết đến và tạo sự phát triển cho Phật giáo, cũng là đủ nhân duyên khi gặp được Tam bảo tạo sự uy tín cho mọi người.

2. Khế cơ, khế lý:
Phật giáo biết ứng dụng chỗ tuỳ duyên, khéo léo trong việc truyền đạo là biết vận dụng tinh thần khế cơ và khế lý. Nghĩa là nhìn vào những cái đã có sẵn của địa phương mà họ đang theo. Từ đó ta phát triển tạo duyên, đồng cảm với họ  cho nên mới có pháp tu: Tứ nhiếp Pháp để ta hành trì tu tập, giáo hoá.  Ngày nay với điều kiện xã hội phát triển nhu cầu con người cao, tư tưởng con người phát triển do ảnh hưởng của các nước tiến bộ là thích được sung sướng, hưởng thụ. Tâm lý con người thường hay tín ngưỡng dân gian vào các thần linh. Cho nên để  Phật giáo phát triển lâu dài và thu hút được quần chúng thì chúng ta ngoài việc trang bị đời sống tâm linh tu tập, mà còn biết khéo diệu dụng tinh thần tuỳ duyên bất biến, bất biến tuỳ duyên của nhà Phật. Tinh thần này đã được rất nhiều các vị tu hành áp dụng trong việc hoằng hoá độ sinh. Để thực hiện được tinh thần tuỳ duyên này chúng ta phải kết hợp đức tìn từ bi trí tuệ của đức Phật vì có câu “Duy tuệ thị nghiệp” nghĩa là: lấy trí tuệ làm sự nghiệp. Nhờ có trí tuệ chúng ta mới thông cảm, tha thứ cho mình và cho mọi người; có trí tuệ mới giúp chúng ta sáng suốt thấy rõ căn cơ để nhận biết được tâm tánh chúng sanh thế nào mà tạo duyên tu tập; có trí tuệ mới biết được chúng sanh thích hợp với pháp môn nào để giáo hoá cho phù hợp. Ngày nay với tình hình đất nước phát triển, Phật giáo đã được nhà nước ủng hộ, quan tâm vì do Phật giáo đã khéo vận dụng tinh thần khế cơ, khế lý vào bản địa và quần chúng nhân dân. Vì thế mà cho đến thời kỳ Hán Minh Đế Phật giáo mới phát triển được nhà vua chú trọng, quan tâm, chính nhờ Ngài Y Tồn đã biết vận dụng tinh thần khế cơ, khế lý để phát triển đạo Phật. Cho nên Phật giáo ngày nay luôn có xu hướng đồng hành cùng dân tộc. Phật giáo lấy tinh thần trí tuệ, từ bi bao dung mà nhập thế hoá độ nhằm đem lại lợi ích an lạc cho chúng sanh và giải thoát trong tương lai.
Qua nhận định trên chúng ta rút ra những bài học giá trị cho việc tu học cũng nhưng trang bị kinh nghiệm trong việc hoằng pháp sau này. Tạo cho ta có ý thức tinh tấn trong tu học và tạo cho chúng ta biết khéo léo, diệu dụng trong việc hoằng truyền chánh pháp độ sanh.
 C. KẾT LUẬN
Đến nay chúng ta biết lịch sử Phật giáo Trung Quốc trên phương diện lịch đại đã trải qua nhiều thăng trầm biến đổi. Các giai đoạn Phật giáo đi sau luôn kế thừa, phát huy những thành tựu của các giai đoạn Phật giáo trước đó tuy mức độ đậm nhạt có khác nhau. Có thể xem Phật giáo Trung Quốc phát triển cao là vào triều đại nhà Đường. Từ thời đại kế thừa trở về sau, Phật giáo Trung Quốc đã duy trì được những thành tựu Phật giáo vào các thời kỳ trước đó. Tuy nhiên, đến đời nhà Thanh, có công trình Phật sự chú ý nhất là in ấn xuất bản Ðại tạng kinh, sự vắng mặt của các bậc cao tăng khiến cho công tác quản lý và công tác tổ chức Tăng đoàn lỏng lẻo. Phật giáo Trung Quốc thời kỳ này dường như đánh mất vị trí trong lòng người dân. Sự suy tàn của Phật giáo là điều không tránh khỏi. Những phong trào chấn hưng vào những thập niên đầu thế kỷ XX đã được Thái Hư Ðại sư đem lại cho Phật giáo Trung Quốc phát triển. Phật giáo Trung Quốc đã được phát triển nhanh chóng và trở thành một tôn giáo có mức ảnh hưởng rất lớn trong đời sống tâm linh của người dân Trung Quốc.
Chúng ta nhận thấy rằng, đạo Phật luôn hiện hữu, cai chơn lý thì lúc nào cũng hiện hữu. Chỉ những gì có hình tướng thì bắt buộc chịu sự biến đổi vô thường và sinh diệt. Sự phát triển của Phật giáo thì luôn giao động theo nhân duyên phước báu của người truyền thừa, Phật giáo  mà phát triển lâu dài và mạnh là do vị truyền đạo có đầy đủ phước báu và nhân duyên, biết vận dụng đúng tinh thần tu tập của nhà Phật để gầy dựng sự nghiệp hành đạo. Cũng vậy chúng ta muốn tu hành được bền lâu thì phải biết áp dụng những lời Phật dạy phải luôn tinh tấn tu tập. Xã hội ngày nay nhiều người nói đất nước phát triển nhưng đó là cái nhìn của người chưa thấy được nhân duyên. Người thấy được nhân duyên thì không còn tham đắm trước ngũ dục, biết tích cực tạo nhân thiện lành để vun đắp và nhận định được vật chất càng nhiều thì tinh thần tu tập giảm. Do đó để tu tập và duy trì trong đạo thì phải khéo léo, diệu dụng trong tu tập tích luỹ nhân thiện lành để có đủ phước duyên và trí tuệ năng lực, nhằm vượt qua những trợ ngạy trong cuộc sống. Chính từ chỗ đó chúng ta biết khoan dung, tha thứ, thông cảm; biết từ bi, hoan hỷ tạo sự thuận duyên cho mọi người thì đây là chúng ta đang phát triển cho chính mình và làm cho Phật giáo được phát triển duy trì lâu dài.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. HT. THÍCH THANH KIỂM (soạn giả), Lịch sử Phật giáo Trung Quốc, Nxb Tôn giáo, Hà Nội, 2010.
2. TT. Thích Viên Trí (soạn giả), Lịch sử Phật giáo Trung Quốc
3. HT Thích Thánh Nghiêm, Lịch sử Phật giáo Trung Quốc
4.  Tuệ Hạn (dịch), Tăng Triệu và tánh không học Đông Phương, Nxb Phương Đông, TP HCM, 2007.
5. TT Thích Viên Trí (soạn giả), Lịch sử Phật giáo Trung Quốc (Từ thế kỷ thứ I sau CN đến thế kỷ thứ X)
6. Thích Tâm Khanh, Đại cương Lịch sử Phật giáo Trung Quốc



[1] Tham khảo: Lịch sử Phật giáo Trung Hoa, (Trích Phật Học Phổ Thông)
[2] Tham khảo: Ðại cương lịch sử Phật giáo Trung quốc, Thích Tâm Khanh
[3] http://www.tangthuphathoc.com/suphatgiao/lichsuphatgiaotrnghoa.htm

[4] Tham khảo: Lịch sử Phật giáo Trung Quốc (Từ thế kỷ thứ I sau CN đến thế kỷ thứ X), Soạn giả: Thích Viên Trí
[5] Giáo trình: Lịch sử Phật giáo Trung Quốc, Thích Minh Nhẫn, Học viện TPHCM.
[6] Tham khảo: Sự truyền nhập của Phật giáo.
[7] Tham khảo: Ðại cương lịch sử Phật giáo Trung quốc, Thích Tâm Khanh
[8] Giáo trình: Lịch Sử Phật giáo Trung Quốc. Thích Minh Nhẫn. Học viện Phật giáo Tại TPHCM, 2011.
[9] Tham khảo: Lịch sử Phật giáo Trung Quốc (Từ thế kỷ thứ I sau CN đến thế kỷ thứ X), Soạn giả: Thích Viên Trí
[10] Lịch sử Phật giáo Trung Quốc. HT Thích Thanh Kiểm, Nxb Tôn giáo, 2010. Tr 29-30.
[11] Lịch sử Phật giáo Trung Quốc. HT Thích Thanh Kiểm, Nxb Tôn giáo, 2010. Tr 27-28.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét