Thứ Tư, 24 tháng 11, 2010

Mười Đặc Điểm Của Tư Tưởng Đại Thừa

Nội Dung Thi Tư Tưởng Đại Thừa

Trong tác phẩm hoàn thiện nhất là Nhiếp Đại Thừa Luận (Mahāyana- Samparigraha), được xem như tiền thân của Duy thức về sau, 10 đặc này do 2 anh em ngài Vô Trước (Asanga) và Thế Thân (Vasubandhu) nêu lên trong tác phẩm này, nhưng các Tăng sĩ đều tôn trọng và chấp nhận nên được xem là 10 đặc điểm của Đại Thừa.
1. Đặc điểm thứ nhất – A lại da thức: hay là thức thứ 8, A lai da là trung tâm của thức, từ đó tất cả các sự vật và hiện tượng của thế gian được chiếu rọi và biểu hiện do ảo giác chủ quan tạo ra bởi vô minh. Mọi hiện tượng được sinh ra từ những yếu tố tịnh và bất tịnh, đó là những hạt giống được kết hợp duyên sinh trong A lai da. A lai da là hiện hữu của kết hợp duyên sinh, đang hiện hữu như một sự chuyển hóa của cái tuyệt đối (Viên Thành Thật-  parinipana). Trên nền tảng của ba thức biến (parināma): (Dị thục – vipaka); tư lương  (manana) và liễu biệt cảnh (visayaprajñapti). Du già tông thừa nhận có 3 dạng thức A lai da thức, Mạt na thức (Mano – vijñāna) và chuyển thức. Dị thục được gọi là A lợi da thức, tư lương là mạt na thức và liễu biệt cảnh là chuyển thức. Nói một cách khác 8 thức là 8 loại thức trong hệ thống tư tưởng của Du già tông. A lại da thức là nơi phát sinh tất cả các loại thức và hoạt động như một dòng suối đang tuôn chảy nhưng với sự chứng ngộ Phật quả thì dòng chảy của nó ngưng lại tức khắc. Ngoài ra tông phái có tên Nhiếp luận thừa nhận sự hiện hữu của Vô cấu thức cùng với 6 thức giác quan (được xếp loại chuyển thức); thức thứ 7 chấp ngã (ĀDĀNA) và thức thức thứ 8. A lai da trở nên hư vọng khi tất cả những hiện tượng gồm 7 thức trước được phát sinh từ những chủng tử trong A lai da. Thế nhưng thể của A lợi da là như thường có tính thanh tịnh hay vô nhiễm. Đây được xem là vô cấu thức hay là thức thứ 9. Bị tác động bởi 7 thức cấu nhiễm nên Vô cấu thức tạo ra A lai da để biểu hiện trên mặt hư vọng. Còn mặt thanh tịnh trong A lợi da cuối cùng làm thanh tịnh phần cấu nhiễm của nó. Ở giai đoạn này A lai da như một trung tâm chấp thủ bị tan rã và một trạng thái thuần khiết của tâm nguyên thủy được chứng ngộ. Đây là trạng thái niết bàn vô trú – (apratisthita –nirvāna). Thực tại tuyệt đối hay chân như, vượt qua những khái niệm và diễn dịch.
(A lai da thức nó thu nhận 7 cái thức đầu, khi 7 thức đầu hoạt động nó bị ô nhiễm và trong khi hoạt động như vậy thì thiện và ác; tích cực và tiêu cực dù thiện bất thiện nó điều ghi nhận hết nên nó bị cấu nhiễm. Khi nó hết cấu nhiễm thì nó trở nên thanh tịnh. rong này nó thừa nhận thêm một thức nữa là Vô câu thức). Như Trung luận của Ngài Long Thọ chủ trương là Tánh không các pháp do duyên sinh nên ta gọi là không, là giả danh nên Trung đạo nghĩa. Nó siêu việt lên 2 thái cực (nên mở đầu bát bất là vậy). Vậy cái đích của hai hệ này có gặp nhau.
Tiền ngũ thức trong kinh Pháp Hoa đặt cho cái tên là Tịnh Nhãn; Ý thức tên là Tịnh Tạng; còn hoàng hậu tượng trưng cho Mạt na thức (vì mạt na là cái chấp thủ, ta thấy người nữ thường chấp thủ); Vua là A lợi da thức. Nên đọc kinh điển Đại thừa những danh từ được đặt tên đều có ý đồ hết.
Trong thời kì phân chia bộ phái, nó có hai bộ phái chính là Đại chúng bộ và Thượng tọa bộ, hai trường phái đã cho thấy xu hướng đặt trọng tâm khác nhau. Thượng tọa bộ cho rằng cuộc đời này khổ quá cần phải thoát khổ nên họ dùng thiền định để tu tập, nhưng để thiền định được tốt thì họ rút lui vào rừng sâu, xa lánh dân cư. Ngược lại Đại chúng bộ không nhìn cuộc đời này là khổ mà họ nhìn giáo pháp Tứ đế của đức Phật với một thể thống nhất, ngay trong khổ nó đã có diệt khổ. Nên Đại Chúng bộ đặt nặng huấn luyện tâm hay rèn luyện cái thứ, bằng cách làm sao chuyển đổi nhận thức. Họ phát triển, phân tích cái tâm, làm cho hành giả thấy được bản chất tâm để tu tập. Cũng giống như trước đây, đức Phật chia con người 5 phần (sắc thọ tưởng hành thức), chia tinh thần ra làm 4 (thọ tưởng hành thức). Qua Đại chúng bộ, họ nhấn mạnh đến yếu tố tâm lý nên phân tích đặc điểm của cái tâm. Ta thấy sự gặp gỡ giữa Phật giáo Nguyên Thủy và Đại chúng bộ.
(A lại da thức được xem như mở rộng một lý giải cho sự luân hồi tái sinh. Nếu như sau này thập nhị nhân duyên được người ta triển khai có 3 thời quá khứ (vô minh, hành), hiện tại (tưởng, lục nhập cho đến lão), tương lai (sinh tử), còn thức và hữu là giai đoạn trung gian giữa hai đời sống).
Chúng ta thấy một sự chuyển biến tư tưởng đi từ cái duyên khởi đầu tiên, đến Đại chúng bộ người ta thêm yếu tố thời gian vào đó. Khi bàn bạc cái gì là sự chuyển tiếp kiếp này qua kiếp khác thì Thượng tọa bộ cho rằng có Trung hữu, nhưng Đại chúng bộ cho rằng không phải như vậy. Sau này họ xây dựng nên cái gọi là A lai da thức, trong khi A lai da thức nó bao gồm quá khứ hiện tại và tương lai, nói theo khoa học nó như một dạng năng lượng nằm trong chúng ta, nó chỉ biến đổi hình dạng mà không mất đi. Khi màng vô minh được xóa thì nó trở lại bản tâm thanh tịnh (Viên thành thật trí). Như trước đây Đại chúng bộ chủ trương rằng là cái tâm là bản tịnh.
Đặc điểm thứ 2: Ba Loại tri giác: Du già tông phân biệt ba loại tri giác sau:
a.  Parikalpta: ảo giác hay biến kế sở chấp.
b. Paratantra: là phân biệt tương đối hay y tha khởi.
c. Parinistanna: là tuyệt đối, chơn như hay Viên thành thật. Theo tông phái này thức tự nó duyên sinh (paratantra). Có 2 loại:
- Hư (Parikalpta) hay phần cấu nhiễm của Paratantra, khởi động bởi vô minh, chỉ cho sự phân biệt được chia thành: +Nhận thức hay năng kiến phần (Darsana-bhāga)= nhận thức, chủ thể= ý, +Cái được nhận thức hay sở kiến phần (Nimitta-bhāga)=đối tượng nhận thức= Pháp. Đây là tướng của Duy thức. Chúng ta lầm tưởng khách thể và khách trần ànên nổi giận
- Thật (Parinispanna): tức là phần thanh tịnh hay thật của Parinistanna. Đây là tánh của thức. Chính khi thấy tánh của các sự vật tức là cái ngã không thật hay tánh không của các pháp một cách rõ ràng mà chánh kiến được hình thành.
Chúng ta tạo ra thế giới ảo, coi đó thấy đó với một hình ảnh mặc định trong đầu rồi nhớ, thương. Trong Phật giáo Nguyên thủy, đức Phật đã cảnh báo “đó là nhũng sản phẩm của tâm”. Chính vì vậy người ta nói Đại thừa là trở về với Phật giáo Nguyên thủy với dạng ngôn ngữ hiện đại bay bướm. Phật giáo Nguyên Thủy bàn về vấn đề chấp ngã thì trong duy thức đã được gắn cho cái tâm thứ 7 tức mạt na thức. Đây là một cái tâm có xu hướng chấp ngã và cho rằng nó là một cái siêu hình có thể di chuyển từ đời này qua đời khác. Đây là một chủ trương sai lầm của cái ngã, một chủ trương phân biệt có khách thể và chủ thể và khi có sự phân biệt như vậy tạo ra quan niệm hư ảo hay còn gọi là biến kế sở chấp nhìn sợi dây thừng tưởng là con rắn, đây là cái sai lầm mà chúng sinh đang vấp ngã, sống trong thế giới ảo biến kế sở chấp. Nên vấn đề của đại thừa là thấy đúng như thật gọi là như thị tránh sai lầm của mạt na thức.
Đặc điểm thứ 3 – Chánh kiến theo quan điểm Duy thức: 
Khi chúng ta có chánh kiến, chúng ta nhận ra cái tâm của vũ trụ. Không có thế giới khách quan vì đó thật ra chỉ là biểu hiện sai lầm của cái tâm gọi là A lợi da thức Và ngay cả cái được cho là cái thực hữu của A lợi da thức này chỉ là một sản phẩm cá biệt hóa được đề ra bởi Mạt  na thức hay thức thứ 7. Mạt na thức hay ngã kinh nghiệm như có thể được gọi không có đủ kiến thức về cái thực tánh của A lợi da và xem A lợi da như một con người siêu hình và con người này như một người điều khiển những con rối sắp xếp mọi hoạt động tinh thần theo sự hóm hỉnh của nó. Như con tầm tự dam mình trong cái bọc được tạo ra bởi nó, Mạt na thức tự làm rối mình trong sự vô minh và nhầm lẫn, xem như tạo tác hư ảo riêng của nó là những sự vật có thật.
(Chánh kiến là thấy được tánh của các pháp Vô Thường, Khổ Và Vô Ngã, người có chánh  kiến duy thức thì nhìn ra được tâm của vũ trụ nhìn xuyên qua hiện tượng cá biệt để thấy được cái chung nhất. Như các cây nó bị hạn buộc bởi cấu trúc. Như định luật bảo toàn năng lượng ( như thí nghiệm về phản ứng của cây về cảm xúc). Như trong kinh Nguyên Thủy Phật giáo nói tất cả là lửa nhưng cháy do củi thì gọi là củi lửa, giấy chấy thì lửa giấy.
Đặc điểm thứ 4 – Lục độ Ba la mật:
Về nguyên tắc sống đạo đức, Du già tông cũng như những tông phái Đại Thừa chủ trương hành trì 6 Ba la mật. Ngài Vô Trước đã giải thích chúng từng tự như sau: Không bám giữ tài sản hay lạc thú, không ấp ủ những ý tưởng phạm giới, không buồn nản khi đối mặt những áp bức thiện pháp, không lười biến khi đang làm những thiện pháp, giữ tâm thanh thoát giữa bụi đời of thế gian, và sau cùng là luôn hành trì sự nhất tâm. Và thực hiểu tánh của các sự vật và hiện tượng mà các Bồ tát nhận ra sự thật của duy thức là không có gì không thuộc sự tạo tác của tâm hay của chủ thể. (tìm hiểu trong tác phẩm Đại thừa nhiếp thừa luận – Mahàyàna-samparigraha). (nói đến Đại thừa là nói đến hành trạng của Bồ tát. Đại thừa mượn từ Bodhisatta (chỉ cho tiền thân của đức Phật luôn luôn vì người khác như trong kinh Bổn Sinh); chuyển thành Badhisatva: Bồ tát là nhân vật của Đại Thừa, vì tha nhân và hành sự của Bồ tát chính là 6 pháp Ba la mật. 6 pháp Ba la mật sắp xếp có dụng ý. Đầu tiên hết là bố thí và tiếp theo những phần sau:
-Bố thí ba la mật: không còn nắm giữ, vô điều kiện. Không thấy có cái tôi, không có vật bố thí, không có người nhận bố thí, xả ngã ( kể cả tâm).
-Trì giới ba la mật: không có cái tôi trong giữ giới, không thấy có người giữ giới. Không khen mình chê người. Trì giới ba la mật: Không có cái tôi trong giữ giới, không thấy có người giữ giới. Không khen mình chê người. (trong bài kinh Xà dụ, trung bộ kinh tập một, đức Phật nói “pháp của ta giảng ví như chiếc bè để vượt qua, khi qua bờ không dại gì vậy. nên chánh pháp còn bỏ huống chi là phi pháp”). Kinh đại thừa nghĩa bong nằm đằng sau những câu chuyện được kể. Y kinh diễn nghĩa tam thế Phật oan, ly kinh nhất tự tức đồng ma thuyết. Tà kiến sống ảo giác sẽ làm khổ trong bản thân của mình và người khác. “kẻ thù của nhân loại là tà kiến chứ không phải dân tộc này hay dân tộc khác”. Đạo Phật là định luật nên làm gì có chuyện tiêu diệt, định luât đó là duyên sinh, các pháp phật nói ra tất cả là định luật chân lý vũ trụ nhân sinh. Đạo Phật đâu gói gọn chỉ là đầu tròn áo vuông. Nói theo duy thức là thấy tánh các pháp. Không ai  tiêu diệt được đạo Phật vì đạo Phật là chân lý. Biểu hiện trì giới ba la mật là không khen mình chê người. vì khi khen mình chê người là thấy cái tôi xuất hiện, còn vướn vào ngã sở. Trì giới mà không thấy mình trì giới.
-Nhẫn nhục ba la mật: Nhẫn nhục mà không thấy nhẫn nhục, không thấy cái tôi. Chính vì không thấy ngã mới nhẫn được.
- Tinh tấn ba la mật: Tinh tấn theo tứ chánh cần, nhưng không có ngã trong đó.
-Thiền định ba la mật: trong kinh điển Pàli có nói: “ sau khi thành tựu giới, vị ấy chứng thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sinh, không tầm không tứ. vị ấy sống trong hỷ lạc thiền định không chịu xả để lên thiền thứ 2” trong khi đó đức Phật khuyên phải đi hành đạo, hành thiền để đi ra hành đạo. Người học duy thức, liễu ngộ duy thức đã là thiền rồi “ đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền”. Khi hành đạo, hòa đồng với xã hội những không làm rối loạn xã hội.
- Trí tuệ ba la mật: Nói tóm lại là 6 ba la mật không có ngã tồn tại.
 MỞ RỘNG: Nhận thức đúng về Phật giáo, nhận thức đúng quy luật. Con người còn phàm và xã hộị phát triển do vậy làm sao để con người hiểu được pháp và hành trì pháp nghiêm túc. Ngày nay do xã hội đã khiến ta phải lao vào công việc nhưng nếu tâm chưa định và nhận rõ thì việc vận dụng, và Phật giáo rất thiện xảo diệu dụng tuỳ cơ ứng biến đã thích ứng trong mọi thời đại. Do người hành trì và vận dụng không được nên đạo Phật không có giá trị hiện hành. Cũng vì chỗ từ bi thương người hay khiêm tốn nhưng chúng ta là người phàm đủ lực để phương tiện nên làm cho đạo bị giảm giá trị.
Cho nên đạo Phật phải có bi và trí hay giác ngộ tâm vững chắc. Cũng vì chúng ta cho vô xuất gia nhiều quá mà làm giảm chất lượng. Nếu nói nguyên thuỷ là tiểu thừa mà do họ nhận thấy nguy hiểm vì chúng ta chưa thàn tựu mà lo chuyện bên ngoài đi giáo hoá và muốn thừa hưởng, không chịu tạo nhân mà muốn có kết quả.
Đặc điểm thứ 5. Thập địa Bồ tát:
5.1. Hoan hỷ địa: Bồ tát rất hoan hỷ trên đường giác ngộ, Bồ tát đã phát Bồ đề tâm và thệ nguyện cứu độ các chúng sanh thoát khỏi luân hồi, không còn nghĩ tới mình, bố thí không cầu phúc và chứng được tính vô ngã của tất cả các pháp.
Theo đúng nghĩa người giác ngộ là không còn buồn về chuyện này, kia. Do vì tinh thần vị tha bố thí nhưng không cầu phúc làm rất tích cức không bỏ, người này luôn hướng đến chúng sanh. Vì này không đặt vấn đề kết quả thế nào, mà luôn hướng đến lợi ích còn kết quả thế nào thì chấp nhận vì tuỳ thuộc  vào phước bàu nhân duyên.
5.2. Ly cấu: Bồ tát giữ giới và thực hiện thiền định. Đối với nguyên thuỷ thích thiền định để dập cái ái, tâm giải thoát vì ái là do vọng tưởng luôn mà ra. Khi chúng ta nhớ một người nào thì tư tưởng luôn phát triển nhiều người tư tưởng khổ đau do không được hay hoạt động sai trái. Nhờ thanh tịnh để cho ái không phát triển.
5.3. Phát quang địa: Bồ tát chứng được quy luật vô thường tu trì tâm nhẫn nhục, khi gặp chướng ngại trong việc cứu độ tất cả chúng sanh. Để đạt đến cấp này, Bồ tát phải diệt trừ tam đọc, thực hiện được 4 cấp độ về thiền (4 thiền) và chứng được lục thông (Abhijña) có thể đi qua tường không chướng ngại (vd: Họ thấy vàng, địa vị không chướng ngại vì thấy được tánh. Cho nên họ đã siêu vượt lên trí của người nên không còn tham ái dính mắt ái dục. Người có dục giống như viên sỏi quăn vô đất hay một con người sống trong cuộc đời (phàm phu: là những người không có trí) thì họ gặp gì dính cái đó. Con người có trí Abhijña => vì họ thấy được tánh, cái thực của các pháp hay tục ngữ: ông bà đã có những kinh nghiệm: “tốt gỗ hơn tốt nước sơn”. Nghĩa là một người có đạo đức, tâm vững vượt lên thì không còn khổ đau, không còn tham dục chi phối, phiền não sân si hay so với Lục độ là hành nhẫn nhục.Ở đời cũng bao nhiêu người chạy theo bề ngoài không nhìn nội dung nên sau bị tan vỡ thất vọng. Đây là con người phàm phu bị ái dục chi phối.
5.4. Diệm Huệ Địa: Bồ tát tinh tấn đốt hết tất cả những quan niệm sai lầm tu tập trí huệ, bát nhã và 37 Bồ đề phần chính cái tinh tấn nên cho ra cái Diệm Huệ cũng như con kiến nói lên sự không ngững tinh tấn
(Liên hệ tứ chánh cần để làm phong phú thêm). Cũng như nhờ chúng ta tinh tấn làm lành quan tâm mọi người và tu tập thì sẽ chuyển nghiệp, tâm bớt khởi ác pháp (vd: Chúng ta vui vẻ hay giữ tâm thanh tịnh).
5.5. Cực nan thắng đại: Bồ tát nhập đinh, đại trí huệ. Nhờ đó liễu ngộ tứ đế và chơn như, tiêu diệt nghi ngờ và biết phân biệt. Bố tát tiếp tục hành trì 37 giác tri.
5.6. Hiện tiền địa: Bố tát liễu ngộ mọi pháp là vô ngã, ngộ lý duyên khởi với mười hai nhân duyên. Và chuyển hoá trí phân biệt thành trí Bát nhã nhận thức được tánh không. Ở địa vị  này Bồ tát đạt đến trí huệ Bồ đề và có thể nhập Niết bàn thường trú Pratisttuta-Mirvàna. Người có trí nhìn qua chiếc đũa gãy người ta khong nhìn chỗ gãy mà sự thật nó không gãy. Cho nên pháp là đưa đến giải thoát. Do ta không nhìn thật tánh của các pháp nên khổ đau.
5.7. Viễn hành đại: đạt đến cảnh giới này, Bồ tát đầy đủ khả năng, có mọi phương tiện (upàya) để giáo hoá chúng sanh. Đây là giai đoạn mà Bồ tát  tuỳ ý xuất hiện trong một dạng bất kỳ. không còn bị trối buộc cãi ngã, cái tôi vị kỷàcó thể chứng đạo. Đến thứ 7 nên Phật giáo là tuỳ duyên bất biến. Để cứu độ chúng sanh đem lại an lạc hoà bình. Đã cho phép những người Đại thừa đã linh hoạt trong việc hoằng pháp, mang lợi ích cho xã hội. Cũng vì chỗ này mà thúc đẩy mọi người phải phát triển hoằng pháp, đứng lên vì chúng sanh. Nhưng con người chịu chi phối bởi nghiệp và nhân duyên phước báu. Cho nên đức Phật cũng phải viên tịch thì rồi Phật giáo cũng mất. Phật mất ở đây là thân tướng còn Phật trong ta không mất. Phương tiện, thiện xảo (kausalya)
5.8. Bất động địa: cái tiền đề trước là để cái sau phát triển. Trong giai đoạn này không còn bất kỳ cảnh ngộ, làm Bồ tát giao động. Công phu tu tập để thực hiện một vô ngại. Theo kinh giải thâm mật thì những phiền não vi tế nhất cũng bị gột rữa ở đât. Vì Bồ tát hành trì hồi hướng Ba la mật.
Mở Rộng: Bồ tát là đi xa là phải có tâm rồng lớn quan sát cho kỹ để không bị chướng ngại không bị ngưới tác động, phải có cái nhìn sâu để biết rõ mới làm đạo được. Cho nên muốn hành đạo phải có trình độ trí tuệ tâm bất động cho nên có pháp hồi hướng Ba la mật không mong đền ơn làm mà không làm. Còn những ngươì sợ không ra thì chọn tu ở trong rừng nhưng cũng đối diện những trở ngại cho nên phải đủ duyên và cố gắng mới phát triển đạo lâu dài =>Cho nên học đại thừa đừng chấp vào văn tự (vd: Bồ tát Nhất Thiết chúng sanh Hỷ Kiến
Đốt thân + đốt hai tay
Phá ngã + phá chấp thủ . Những người hành trì này là phải có căn cơ cao mới làm. Cũng giống như mình yếu mà đòi được cao thì không được phải từ từ thoải mái.
5.9. Thiện Huệ Địa: Trí huệ Bồ tát viên mãn, đạt thập lực, lục thông, tứ vô sở uý, bát giải thoát. Biết rõ cơ sở mọi giáo pháp và giảng dạy giáo pháp. Vị này hành trì lực Ba la mật. Đức Phật đã khái quát Phật giáo là Bi-Trí. Tình yêu phải có lý trí mới không còn tình vị kỷ, mở rộng và phải có dũng mới thực hiện được. Khi ra giáo hành đạo phải có lực, nếu không là khó làm việc và có sức khoẻ cho nên phải đủ lực.
Bồ tát Văn Thù có trí và có lực (phẩm 28 trong kinh pháp hoa : con voi 6 ngà (6 lục độ) phải có dũng để người sợ
5.10. Pháp vân địa: Bồ tát nhất thiết trí, Đại hạnh, pháp thân của Bồ tát đã đạt tới mức viên mãn, Bồ tát ngự trên toà sen với vô số Bồ tát chung quanh trong cung trời đâu suất. Phật quả của Bồ tát đã được chư Phật ấn chứng, những Bồ tát đạt cấp độ này là Di lặc, Quan thế Âm, Văn Thù Sư Lợi…vì này hành trì Ba la mật.
Người hành đạo trong giai đoàn này có rất nhiều đồ chúng với phong thái như vậy được nhiều người theo vì này hành trì trí Ba la mật.
Đặc điểm thứ 6. Giới: Du già tông cho rằng những giới luật hành trì bởi những người Đại thừa cao siêu hơn giới luật của Tiểu thừa. Tiểu thừa chú trọng hình thức bên ngoài và không đi sâu vào những động cơ tinh thần chủ quan. Đối với những giới luật thân-khẩu-ý mà đức Phật hành trì thì Tiểu thừa hành trì 2 cái đầu tiên và thờ ơ cái sau cũng là cái quan trọng hơn cả. Chẳng hạn Thanh văn 10 thức xoa (Siksa) vì họ muốn chứng Niết bàn cho riêng mình. Ngược lại nhắm đến sự cứu độ toàn thể nhân loại mà vị Bồ tát có thể vi phạm 10 Thức Xoa nếu thấy cần, miễn là hành động của vị ấy là đúng và làm lợi ích cho số đôngàkhông đặt nặng hình thức thân-khẩu bên ngoài, mà đặt nặng ở cái ý nhắm đến cái tâm, ý có suy nghĩ chỉ biết lợi người mà không lợi mình.
Tinh thần Đại thừa nhắm đến cái tâm cho nên dù hình thức có sai qua câu chuyện hai anh em, người anh đã ôm cô gái để cứu nhưng tâm không khởi niệm vì tinh thần Đthưà là ở tâm, ý. Phương tiện để hành đạo miễn làm sao lợi người và lợi mình, đặt nặng vào động cơ ý. Cho nên đại thừa không chủ trương hình thức bên ngoài thế nào
7. Định: Đại thừa nhấn mạnh sự thanh tịnh của nội tâm lời giáo huấn của truyền thống này không áp dụng cho những sự vật ở bên ngoài và những nguyên tắc của truyền thống này không chỉ dành riêng cho giới ẩn sĩ. Những người Đại thừa không trốn tránh bụi đời để làm lợi ích tinh thần cho số đông, những dù có thế khi có niềm tin bất động đối với Đại thừa thì họ không bao giờ bị uế nhiễm bởi sự hư ảo và lạc thú của thế gian, mà họ còn có thể thường tiếp xúc. Họ hướng đến sự chứng ngộ Bồ đề và có chánh kiến về học thuyết vô ngã khi thoát khỏi những phiền não họ sống viên mãn đúng với lý như thị và phát khởi những bổn phận mà không có một tí ngã mạn
à Cốt yếu tâm thanh tịnh không xa lánh trần tục, sống giữa xã hội để làm Phật sự vẫn ở giữa cuộc đời khổ đau nhưng tâm vẫn thanh tịnh (như hoa sen). Định thì Tiểu hay Đại đều giống nhau,  nhưng đối với tiểu thừa thì xa lánh trần tục còn đại thừa thi không.
Thiền sư : đối cảnh vô tâm mặc chẳng thiền (Đây là tinh thần nhập thế)
8.Trí tuệ: Sự ưu việt tri thức của một vị Bồ tát được biểu thị bởi sự sở hữu một tri kiến không cá biệt hoá (Anānārtha). Tri kiến này theo triết lý mà nói là tri kiến về cái tuyệt đối hay tri kiến về cái phổ quát theo đó tâm của vị Bồ tát thoát khỏi nhị nguyên như Ta bà- Niết bàn, Hữu-phi hữu, khách thể-chủ thể, Ngã-vô ngã.
So sánh: Trí tuệ,  Đối với trí tuệ Đại thừa thì không cá biệt, theo cái nhìn toàn diệnàkhông có sự phân biệt hữu-phi hữu, Ta bà-Niết bàn. Còn Tiểu thừa thì nghĩ về một cá biệt. Đại thừa không nghiên về bên này, bên kia, hay cái nhìn Trung đạoànói trí tuệ là nói về chánh kiến về thế giới. Đối với Tiểu thừa thì trí tuệ hay chánh kiến thấy bản chất Thế giới là vô thường, khổ, vô ngã. Còn cái nhìn Đại thừa là không có chấp, bám níu vào cái gì, nhìn thế giới như tổng thể và xem Ta bà- Niết bàn là đồng nhất
Mở rộng: Người hành Đại thừa tâm cao mới hành được có đủ trí tuệ..do chấp ngã đưa đến chủ thể và khách thể. Cái biết phân biệt là do thức thứ 7. Chính thức thứ 7 đưa đến chánh kiến hay tà kiến và có khách thể hya chủ thể.  Còn trí tuệ của Đại thừa là không còn thức thứ 7 nhìn Thế giới như thật, như thị một cách trung thực. (KINH PHÁP HOÁ PHẨM NHƯ THỊ)  
9. Thường trí vô phân biệt: Kết quả sự thăng hoa tri kiến là vị Bồ tát thấy được sự đồng nhất hai thái cực. Vị này thấy những sự vật “hằng chuyển” trong cái “một cái không thay đổi” và ngược lại. Thấy Ta bà trong Niết bàn và ngược lại. Nội tâm vị này sống phù hợp cùng một lúc với cả hai lý sinh diệt của những sự vật và lý như thị sư việt, vị ấy sống giữa trần gian như hoa sen, biểu tượng của sự vô nhiễm mọc ra từ bùn nhưng không chia sẽ mùi uế nhiễm của nó. Đây là kết quả của thứ 8 (không cá biệt, không chấp thủ cái gì) và thăng hoa thànhàcái thứ 9 (một và tất cả, Ta bà- Niết bàn, không phân biệt) (Lhệ bài kinh pháp môn căn bản) cái thứ 8 và thứ 9 gần giống nhau, nhưng khác nhau, các vi luận sư đều có dụng ý
Phân biệt bốn hạng người:
1. Phàm phu (Thức tri): Jānāti (cái biết thông qua 6 căn-6 trần)àphiền não. Duy thức: do thức thứ bảy (là chấp ngã, có cái chủ thể và khách thể hay cái nhận thức hay đi nhận thức)
2. Hữu học( 3 quả vị đầu tiên) /(Thắng trí): Abhi-Jānāti (Thiền định), (abhi: vượt lên): cái biết này hơn phàm phu, Cái biết ngang qua thiền định phiền não lắng xuốngàtâm thanh tịnhàParakapita: biến kế sở chấpàtình trạng này đang trong quá trình chế độ phiền não giữa các phần trong cơ thể đánh nhau, hai bên giằng co chưa phân thắng bại. Cái biết của duy thức thông qua 6 căn và 6 trần là có phân biệt nên có phiền não là cái biết phàm phu. Nói theo tinh thần Đại thừa thì Duy thức là do thức thứ 7 chấp ngã có cái nhận thức và được nhận thức
Cái biệt ngang qua thiền định nhiếp tâm lại thì mọi vọng tưởng lý luận đều lắng xuốngà tâm thanh tinh hơnàthấy gần gần thế giới thật, (theo Duy thức thì thế giới: Biến kế sở chấp). Hữu học trong quá trình đang tu nên hành thiền định nên đang trong quá trình nhiếp phục ảo giác, đáng chế ngự phiền não chưa phân thắng bại
3. A la Hán (Liễu Tri): Pari-Jānāti: vị này vẫn thiền định thanh tịnh nhưng cấp cao hơn à và chiến thắng được tham, sân, si. Ý nhiếp phục phiền não.
Đại thừa lời lẽ khác với Nguyên thưy nhưng tư tưởng khôi phục lại giá trị nguyên thuỷ, là sự canh tân (hay gọi up to date) làm nhưng không nhiễm


4. Phật (Thường Trí): Pā-jānāti (chánh đẳng giác)ànhỗ tận gốc rễ phiền não
Alahán, Thanh Văn, Duyên giác cần phải tu tập ví như Alahán mới chặt sát gốc nhưng gốc rễ vẫn còn. Chỉ có Phật mới nhổ tận gốc (vd:chặt đứt cây tala). Tiểu thừa xem Alahán và Phật đều một nhưng khác, Phật là người chỉ đường. Còn Đại thừa thì Alahan và Phật khác nhau Phật là nhỗ tận gốc, còn Alahan chưa nhỗ hết gốc rễ.
(Phẩm HOÁ THÀNH DỤ: nói rằng Thanh Văn, Duyên giác mới đi nữa đường) 
Đặc điểm thứ 10. Tam thân Phật: Đặc điểm Đại thừa sau cùng được đề cập là học thuyết Tam thân. Được cho rằng có một tồn tại cao nhất là nguyên nhân tối hậu của vũ trụ và trong đó tất cả những hiện hữu tìm thấy nguồn gốc và ý nghĩa thiết yếu của chúng. Cái này được những người Đại thừa gọi là Dharmakāya (pháp thân). Tuy nhiên pháp thân không ở yên trong trạng thái tuyệt đối, nó tự biểu lộ trong lĩnh vực nhân quả và biểu hiện trong những hình thức cụ thể theo những nhu cầu nội tâm của chúng sanh. Đây được gọi là Nirmānakāya hay Ứng hoá thân, tức là thân hoá hiện chẳng hạn thân Phật Thích Ca. Nhưng khi Pháp thân đáp ứng những nhu cầu của những Bồ tát có đời sống tâm linh cao hơn những người thế tục thì nó tự dùng Sambhagakàya (Báo thân). Thân thứ 3 là một hiện hữu siêu nhiên. Bảy hay 10 đặc điểm Đại thừa nêu trên là những gì các nhà tư tưởng Phật học Ấn Độ của Thế Kỷ thứ I đến thế kỷ V/VI Công Nguyên cho là những tín điều quan trọng nhất và họ cho đó là giải thoát Đại thừa tương phản với những tín điều của những huynh đệ của họ.
=> Tam thân Phật: ngay khi đức Phật nhập diệt (Nguyên thuỷ) nói đừng thờ cái thân của Ta mà hãy nương vào pháp (Dharmma) mà tu học, nên trong gđ đầu không có thờ Phật và có người thực hiện bằng cách thờ tháp Xá lợi Phật, khoảng 3,4 trăm năm sau để thay đổi lòng tôn kính và nhất là tôn giáo bạn toàn là thờ hình ngườià nên thờ thân Phật, họ cho rằng bậc Đạo sư là con người siêu việt không như người bình thường và nếu thờ thân người thì tìm cách lý giải để làm thân Phật có gì siêu việt và cũng bắt nguồn từ lời dạy của Phật từng pháp này mà tu học pháp là định luật duyên khởi khách quan của vũ trụ dù đức Phật xuất hiện hay không xuất hiện đều tồn tại mãi mãi và khi ứng dụng định luật này vào thế giới hữu tình và con người, sinh vật đức Phật nói là 12 nhân duyên, khổ đau là do vô minh. Đay là định luật khách quan và định luật này, đức Phật là người đầu tiên khám phá ra định luật này và khai thi cho chúng sanh thấy định luật này
Mở Rộng: Tín đồ Phật giáo là tập hợp những người đang sống theo lời dạy của đức Phật sống đúng quy luật. Phật giáo là siêu tôn giáo, nằm đằng sau tất cả thế giới vật chất và tinh thần vì nó là định luật khách quan. Chính pháp này đúc Phật muốn cho chúng sanh thấu hiểu: là nền tảng và mọi kinh luật luận đều hướng đến cái này tuy có sự diễn đạt hình thức khác nhưng đều nhắm đến pháp. Khi thờ thân  Phật các vị đại luận sự tìm ra giải thích Thân của Phật đại thừa xây dựng Phật có 3 thân mà thân chính là Pháp thân, Pháp thân là căn bản nhấtà đã phát sinh 2 thân: Ứng thân (con người bằng xương bằng thịt: Phật Thích Ca), Báo thân (là Bồ tát siêu Việt ở khắp mọi nơi ở các cõi khác ngoài thế giới Ta bà), và sự giáo hoá đức Phật là cho con người và chư thiên ( Nên có câu đức Phật ra đời là vì chư thiên và loài người hay khai thị Phật ngộ tri kiến. Tâm thân thời Phật giáo nguyên thuỷ hay Bộ phái chưa có Tam thân mà đến đại thừa thì Tam thân mới có từ thân bình thường đến thân siêu việt. Nếu về Vật lý thì pháp thân như dạng năng lượng của vũ trụ. Trong định luật Btoàn năng lượng: thì năng lượng trong vũ trụ không mất đi mà chỉ thay hình đổi dạng, định luật mới phát biểu mà Phật đã phát hiện lâu: như khi ánh sáng qua bóng đèn có biểu hiện khác nhau nhưng đều có nguồn gốc từ điện
            Muốn cho chúng sanh thấu hiểu rõ về Thế giới đạo Phật các tư tưởng mà phát triển đến ngày nay rất nhiều hình thức. Nhìn biểu tượng các bộ phái bên ngoài khác nhưng đều là một thể, tuy pháp môn khác nhau nhưng đều là con Phật. Nhưng hiểu là đều con Phật nhưng do nghiệp bản năng, quy luật sinh diệt có hợp phải có tan, vật chất càng nhiều thì tu bị giảm nên dù cho có thống nhất nhưng tâm không thống nhất bị chi phối bởi xã hội thì cũng khó thống nhất được. Bây giờ chỉ hành trì nhiêu hay nhiêu do vì là con Phật muốn duy trì Phật giáo và để tu được thì phải lo xã hội mới yên lo tu học (Bằng cách nào để đưa đến hoà hợp: ngay lúc tu nên tạo nhân tập tham gia nhiều hoạt động và học cho giỏi có quan tâm nhiều người và hiểu được quy luật của Phật giáo. Vì thế mà cùng ngồi lại để tu học nhưng kết quả bao nhiêu cũng được nhưng luôn phấn đấu để được người tu đến chổ cao hơn nếu kiếp này không hoà nhưng đến nhiều kiếp sau sẽ làm được.                                                                                       
            Ý nghĩa phát xuất từ Tam thân chính là vấn đề trên. Sự giáo hoá của Phật là con người và chư thiên. Nên có câu Phật xuất hiện trên cõi đời là vì chúng sanh và chư thiên. Nếu cho con người là Ứng thân và chư thiên là Báo thân (vd: Nếu so với vật lý thì Pháp thân như một năng lượng vũ trụ. Năng lượng này không mất đi mà chỉ thay hình đổi dáng. Dạng năng lượng này khi đi vào bóng đèn thì cho ánh sáng. Mỗi vật đều có năng lượng vận động và biến đổi mà có những biểu hiện. Từ đó mỗi vật phát sinh hiên hữu. Khái niệm: Dharmakàya= tánh không= Sùnyatà (Chơn như)=Phật tánh= Như lai tạng. Khái niệm này không phải là thượng đế, phạm thiên, không phải là ngã, không phải cố định, mà bản thân là duyên sinh. Đây là những chìa khoá để đi vào đại thừa và giúp chúng ta ko bị lan man khi đọc kinh đại thừa. Tam thân này ứng dụng vào Kinh Pháp Hoa (tiêu biểu cho đại thừa): Chơn lý là cái thường hằng bất biến nhưng do tuỳ theo tư tưởng mà có cách thể hiện khác nhau
            “Y kinh giải nghĩa tam thế Phật oan” (oan cho Phật) không nên giảng theo nghĩa đen. “Ly kinh nhất tự đồng ma thiết”. Từ dưới đất vọt lên hư không tháp 15m từ đó thoát ra giọng nói của Phật Đa Bảo ( Phật Đa Bảo đã nhập Nbàn vô lượng vô biên hằng hà sa (cát sông Hằng) na do tha số kiếp  khen Phật Thích Ca đã khéo thuyết kinh Pháp Hoa và đại chúng nghe muốn lên để đảnh lễ Phật Đa Bảo, Phật Đa Bảo đã biết đc ý đại chúng thì nói Phật Thích Ca phân thân Phật 10 phương thế giới về cõi ta bà và nhờ  Phật Thích Ca dùng thần lực để đưa hội chúng lên đảnh lễ. (Phật Đa Bảo tiêu biểu cho định luật bất diệt là nhân cách hoá của pháp thân, còn đại chúng ở đây là Phật Thích Ca là con người bằng xương thịt, còn phân thân Phật Thích Ca khắp 10 phương. Ba cái nhóm người này hội đủ lại nhau trên hư không và khi Phật Thích Ca đưa hội chúng lên đã mở cửa ra thấy Phật Đa Bảo là thấy chơn lý, chơn lý toàn cảnh trên hư không chính là biểu tưọng cho tánh , chúng sanh thấy Phật Đa Bảo là thấy chơn lý trong điều kiện toàn cảnh trên hư không (biểu tượng cho tánh không=Sūnyatā). Khi ba cái thân hội tụ lại là thiền định hay tam muội (thiền định là hội đủ của tam thân) tức Phật Thích Ca tiêu biểu cho người bằng xương thịt và phân thân Phật ở 10 phương là các tưởng, vọng tưởng phân tán khắp 10 phương và khi hội tụ, thâu nhiếp lại hay tất cả các chúng sanh khăp 10 phương thâu nhiếp lạià các vọng tưởng biến mất ở cõi ta bà, khi vọng tưởng thâu nhiếp lại thì mặt trời chơn lý chói quaà là ngộ. Cho nên ly kinh một chữ là ngoại đạo mà tư tưởng đạo Phật là nằm sau ngôn ngữ. Nếu chúng ta là xư giả Như Lai không nhận đúng điều này thì làm cho Phật tử lạc vào thế giới thần thoại hay vọng tưởng hay làm méo mó Phật giáo. Hiểu như vậy là chúng ta đã đưa Phật giáo vào đời sống thực tế hơn. Lúc đó hoa sen trong bùn hay Niết bàn cực lạc trong cõi ta bà này. Người chứng ngộ chính là ngươì bằng xương bằng thịt hay Nirvàna= Ta bà (Sahà) hay Sansàra (luân hồi) chính là Niết bàn ở cõi ta bà. Trong Trung Luận, Ngài Long Thọ Ta bà= luân hồi=Niết bàn hay trong đặc điểm thứ 9 là Thường trí vô phân biệt các thái cực là đồng nhất chỉ người chứng ngộ mới thấy và chỉ Phật đạt đến được. Còn đặc điểm thứ 8 là nói Tuệ Đại thừa chính là Trí của các vị Bồ tát, còn cấp độ tinh vi là thua thứ 9 một bậc. Đặc điểm thứ 8 ám chỉ trình độ nhận thức của Bồ tát, còn thứ 9 là Phật

Thứ Năm, 4 tháng 11, 2010

Mối Quan Hệ Vật Chất Và Ý Thức ( Triết Học Mác Lê nin)



Lời nói đầu
những thành tựu trong công cuộc đổi mới trong thời gian qua đã và đang tạo ra một thế lực mới để nước ta bước vào một thời kì phát triển mới .nhiều tiền đề cần thiết về cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đã được tạo ra, quan hệ giữa nước ta và các nước trên thế giới ngày càng được mở rộng .khả năng giữ vững độc lập trong hội nhập với cộng đồng thế giới được tăng thêm. cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển với trình độ ngày càng cao, thúc đẩy quá trình chuyển dịch kinh tế và đời sống xã hội .
các nước đều có cơ hội phát triển. tuy nhiên,do ưu thế công nghệ và thị trường thuộc về các nước phát triển khiến cho các nuớc chậm phát triển đứng trước một thách thức to lớn. nguy cơ tụt hậu ngày càng cao ,mà điểm xuất phát của nước ta quá thấp, lại phải đi lên từ môi trường cạnh tranh quyết liệt .
trước tình hình đó ,cũng với xu thế phát triển của thời đại ,đảng và nhà nước cần tiếp tục tiến hành đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện đất nước,trong đó đổi mới kinh tế đóng vai trò then chốt ,giữ vai trò chủ đạo .đồng thời đổi mới kinh tế là một vấn đề cấp bách ,bởi giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị có mối quan hệ giữa vật chất và ý thức sẽ cho phép chúng ta vận dụng vào mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị ,giúp cho công cuộc đổi mới của đất nước ngày càng giàu mạnh .
với ý nghĩa đó em đã chọn đề tài "mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức trong nền kinh tế nước ta hiện nay".
NỘI DUNG
 I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA
VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
2.1.Vật chất
a. Định nghĩa vật chất
Vận động được hiểu theo chung nhất của chủ nghĩa Mác. Vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố hữu của vật chất bao gồm mọi quá trình diên xra trong vũ trụ hay vận động là sự biến đổi biến hóa nói chung. Và vật chất vận động thông qua vận động thế giới bộc lộ các thông tin, thuộc tín, quy luật vật chất thông qua đó chúng ta nhận thức, quy luật biến đổi của thế giới vật chất. Nếu thế giới không vận động thì hình dung được thế giới vật chất này (Vd: Thông qua ánh sáng vận động chúng ta mới biết vật chất).
Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất có nghĩa vận động và vật chất gắn liền nhau, không tách rời vật chất, và vật chất tự có, vận động tự thân vận động và do không tách rời nên khi nói về vận động thì vận động của vật chất, và khi nói vật chất thì vật chất đang vận động. Cho nên giữa vật chất có liên hệ nhau nên vật chất thì luôn vận động nên không thể kết luận vận động có trước hay sau. Kết luận vận động là phương thức của vật chất
Vận động là phương thức tồn tại của vật chất. các quan điểm khác thì cho vận động là do thế giới khác chi phối
Vd: Qua 3 điểm Newton, Một vật đứng yên thì yên mãi khi không có lực tác động
Hiện này Chia vận động thành các năm hình thức vận động cơ bản
Vận động cơ học
Vận động vật lý
Vận động hóa học
Vận động sinh học
Vận động xã hội
Sự vận động của các sự vật trên thế giới, diễn ra thế nào. Vận động là tuyệt đối là lucs nào cũng vận động. Nếu nó có đứng yên chỉ là tương đối nên mới nhận ra các sự vật hiện tượng  (VD: chúng ta thấy quạt quay, do chúng ta thấy quạt quay vì nó nhỏ hơn trái đất). Cho nên vật chất không lúc nào không vận động. Nếu nó đứng yên chỉ là tương đối nếu đứng yên chỉ xét một qua điểm nhất định. Cho nên chúng ta phải lấy một vật làm hệ quy chiếu (vd: xe và đường thì lấy đường làm hệ quy chiếu mới xe chạy trên đường được). Thứ hai là lấy một thời gian nhất định, nên thời gian xác định thì đứng yên


Vật chất là phạm trù triết học phức tạp và có nhiều quan niệm khác nhau về nó .Nhưng theo Lênin định nghĩa :"vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan đem lại cho con người trong cảm giác ,được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại ,phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác ".
Lênin chỉ rõ rằng, để định nghĩa vật chất không thể theo cách thông thường vì khái niệm vật chất là khái niệm rộng nhất.Để định nghĩa vật chất Lênin đã đối lập vật chất với ý thức ,hiểu vật chất là thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác ,vật chất tồn tại độc lập với cảm giác ,ý thức, còn cảm giác ,ý thức phụ thuộc vào vật chất ,phản ánh khách quan. 
Khi định nghĩa vật chất là phạm trù triết học, Lênin một mặt muốn chỉ rõ vật chất là khái niệm rộng nhất, muốn phân biệt tư cách là phạm tù triết học, là kết quả của sự khái quát và trừu tượng với những dạng vật chất cụ thể ,với những" hạt nhân cảm tính".Vật chất với tư cách là một phạm trù triết học không có những đặc tính cụ thể có thể cảm thụ được .Định nghĩa vật chất như vậy khắc phục được những quan niệm siêu hình của chủ nghĩa duy vật đồng nhất vật chất với hình thức biểu hiện cụ thể của nó.
Lênin cho rằng vật chất vốn tự nó có ,không thể tiêu diệt được ,nó tồn tại bên ngoài và không lệ thuộc vào cảm giác ,ý thức con người, vật chất là một thực tại khách quan.Khác với quan niệm ý niêm tuyệt đối của CNDTKQ ,"thượng đế"của tôn giáo …Vật chất không phải là lực lượng siêu tự nhiên tồn tại lơ lửng ở đâu đó ,trái lại phạm trù vật chất là kết quả của sự khái quát sự vật ,hiện tượng cụ thể ,và do đó các các đối tượng vật chất có thật ,hiện thực đó có khả năng tác động vào giác quan để gây ra cảm giác ,và nhờ đó mà ta có thể biết được ,hiểu được và nắm bắt sự vật này .Định nghĩa của Lênin đã khẳng định được câu trả lời về hai mặt của vấn đề cơ bản của triết học .
Hơn thế nữa Lênin còn khẳng định cảm giác chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác. Khẳng định như vậy một mặt muốn nhấn mạnh tính thứ nhất của vật chất, vai trò quyết định của nó với vật chất ,và mặt khác khẳng định khả năng nhận thức thế giới khách quan của con người. Nó không chỉ phân biệt CNDV với CNDT, với thuyết không thể biết mà còn phân biệt CNDV với nhị nguyên luận.
Như vậy, chúng ta thấy rằng định nghĩa vật chất của Lênin là hoàn toàn triệt để, nó giúp chúng ta xác định được nhân tố vật chất trong đời sống xã hội ,có ý nghĩa trực tiếp định hướng cho nghiên cứu khoa học tự nhiên giúp ngày càng đi sâu vào vào các dạng các dạng cụ thể của vật chất trong giới vi mô .Nó giúp chúng ta có thái độ khách quan trong suy nghĩ và hành động.
b. Các đặc tính của vật chất
*Vận động là phương thức tồn tại của vật chất và là thuộc tính cố hữu của vật chất.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng ,vận động là sự biến đổi nói chung chứ không phải là sự chuyển dịch trong không gian .Ăngghen cho rằng vận động là một phương thức tồn tại vật chất ,là thuộc tính cố hữu của vật chất,gồm tất cả mọi sự thay đổi trong moi quá trình diễn ra trong vũ trụ.Vận động có 5 hình thức vận động chính là cơ -Hoá- lý -sinh-xã hội.Các hình thức vận động này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau ,một hình thức vận động này thực hiện là tác động qua lại với những hình thức vận động khác ,trong đó vận động cao bao gồm vận thấp nhưng không thể coi hình thưc vận cao là tổng số đơn giản các hình thức vận động thấp.
Thế giới khách quan bao giờ cũng tồn tại không ngừng không thể có vật chất không vận động ,tức vật chất tồn tại .Vật chất thông qua vận động mà biểu hiện sự tồn tại của mình .Ăngghen nhận định rằng các hình thức và các dạng khác nhau của vật chất ,chỉ có thể nhận thức được thông qua vận động mới có thể thấy được thuộc tính của nó .Trong thế giới vật chất từ các hạt cơ bản trong vi mô trong hệ thống hành tinh khổng lồ.
Bất cứ một dạng vật chất nào cũng là một thể thống nhất có kết cấu xác định gồm những bộ phận nhân tố khác nhau, cùng tồn tại ảnh hưởng và tác động lẫn nhau gây ra nhiều biến đổi .Nguồn gốc vận động do những nguyên nhân bên trong ,vận động vật chất là tự thân vận động.
Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất ,không thể có vận động bên ngoài vật chất .Nó không do ai sáng tạo ra và không thể tiêu diệt được do đó nó dược bảo toàn cả số lượng lẫn chất lượng.Khoa học đã chứng minh rằng nếu một hình thức vận động nào dó của sự vật mất đi thì tất yếu nó nảy sinh một hình thức vận động khác thay thế .Các hình thức vận động chuyển hoá lẫn nhau còn vận động của vật chất thì vĩnh viễn tồn tại.
Mặc dù vận động luôn ở trong quá trình không ngừng, nhưng điều đó không loại trừ mà còn bao hàm cả hiện tượng đứng im tương đối, không có nó thì không có sự phân hoá thế giới vật chất thành các sự vật ,hiện tượng phong phú và đa dạng .Ăngghen khẳng định rằng khả năng đứng im tượng đối của các vật thể ,khả năng cân bằng tạm thời là những điều kiện chủ yếu của sự phân hoá vật chất. Nếu vận động là biến đổi của các sự vật hiện tượng thì đứng im là sự ổn định ,là sự bảo toàn tính quy định sự vật hiện tượng .Đứng im chỉ một trạng thái vận động ,vận động trong thăng bằng ,trong sự ổn định tương đối .Trạng thái đứng im còn được biểu hiện như là một quá trình vận động trong phạm vi sự vật ổn định ,chưa biến đổi ,chỉ là tạm thời vì nó chỉ xẩy ra trong một thời gian nhất định .Vận động riêng biệt có xu hương phá hoại sự cân bằng còn vận động toàn thể lại phá hoại sự cân bằng riêng biệt làm cho các sự vật luôn biến đổi ,chuyển hoá nhau .
*Không gian và thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất
Không gian phản ánh thuộc tính của các đối tượng vật chất có vị trí ,có hình thức kết cấu ,có độ dài ngắn cao thấp .Không gian biểu hiện sự tồn tại và tách biệt của các sự vật với nhau ,biểu hiện qua tính chất và trật tự của chúng Còn thời gian phản ánh thuộc tính của các qúa trình vật chất diễn ra nhanh hay chậm ,kế tiếp nhau theo một trình tự nhất định .Thời gian biểu hiện trình độ tốc độ của quá trình vật chất ,tính tách biệt giữa các giai đoạn khác nhau của qúa trình đó ,trình tự xuất hiện và mất đi của các sự vật hiện tượng.
Không gian và thời gian là những hình thức cơ bản của vật chất đang vận động ,Lênin đã chỉ ra trong thế giới không có gì ngoài vật chất đang vận động .Không gian và thời gian tồn tại khách quan ,nó không phải bất biến ,không thể đứng ngoài vật chất ,không có không gian trống rỗng ,mà nó có sự biến đổi phụ thuộc vào vật chất vận động .
ã Tính thống nhất vật chất của thế giới
CNDT coi ý thức, tinh thần có trước ,quyết đinh vật chất ,còn duy vật thì ngược lại .Triết học Mác-Lênin khẳng định rằng chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất đồng thời còn khẳng định rằng thế giới đều là những dạng cụ thể của vật chất ,có liên hệ vật chất thống nhất với nhau như liên hệ về cơ cấu tổ chức ,lịch sử phát triển và đều phải tuân thủ theo quy luật khách quan của thế giới vật chất ,do đó nó tồn tại vĩnh cửu ,không do a sinh ra và cũng không mất đi trong thế giới đó ,không có gì khác ngoài những quá trình vật chất đang biến đổi là chuyển hoá lẫn nhau ,là nguyên nhân và kết quả của nhau.
2. ý thức
a. kết cấu của ý thức
 Cũng như vật chất có rất nhiều quan niệm về ý thưc theo các trường phái khác nhau . Theo quan điểm của CNDVBC khẳng định rằng ý thức là đặc tính và là sản phẩm của vật chất ,là sự phản ánh khách quan vào bộ óc con người thông qua lao động và ngôn ngữ .Mác nhấn mạnh rằng tinh thần ý thức là chẳng qua chỉ là cái vật chất được di chuyển vào bộ óc con người và được cải biến trong đó .ý thức là một hiện tượng tâm lý xã hội có kết cấu phức tạp gồm ý thức tri thức ,tình cảm ,ý chí trong đó tri thức là quan trọng nhất ,là phương thức tồn tại của ý thức,vì sự hình thành và phát triển của ý thức có liên quan mật thiết với quá trình con người nhận thức và cải biến giới tự nhiên.Tri thức càng được tích luỹ con người càng đi sâu vào bản chất của sự vật và cải tạo sự vật có hiệu quả hơn ,tính năng động của ý thức nhờ đó mà tăng hơn .Việc nhấn mạnh tri thức là yếu tố cơ bản quan trọng có ý nghĩa chống quan điểm đơn giản coi ý thức là tình cảm ,niềm tin …Quan điểm đó chính là bệnh chủ quan duy ý chí của niềm tin mù quáng .Tuy nhiên việc nhấn mạnh yếu tố tri thức cũng không đồng nghĩa với việc phủ nhận coi nhẹ yếu tố vai trò tình cảm ý chí.
Tự ý thức cũng là một yếu tố quan trọng mà CNDT coi nó là một thực thể độc lập có sẵn trong cá nhân ,biểu hiện xu hướng về bản thân mình ,tự khẳng định cái tôi riêng biệt tách rời xã hội .Trái lại CNDVBC tự ý thức là ý thức hướng về nhận thức bản thân mình thông qua quan hệ với thế giới bên ngoài .Khi phản ánh thế giới khách quan con người tự phân biệt mình ,đối lập mình với thế giới đó là sự nhận thức mình như là một thực thể vận động ,có cảm giác ,tư duy có các hành vi đạo đức và vị trí xã hội .Mặt khác sự giao tiếp xã hội và hoạt động thực tiễn xã hội đòi hỏi con người nhận rõ bản thân mình và tự điều chỉnh theo các quy tắc tiêu chuẩn mà xã hội đề ra .Ngoài ra văn hoá cũng đóng vai trò cái gương soi giúp cho con người tự ý thức bản thân .
Vô thức là một hiện tượng tâm lý ,nhưng có liên quan đến hoạt động xảy ra ở ngoài phạm vi của ý thức .Có 2 loại vô thức: loại thứ nhất liên quan đến các hành vi chưa được con người ý thức ,loại thứ hai liên quan đến các hành vi trước kia đã được ý thức nhưng do lặp lại nên trở thàmh thói quen ,có thể diễn ra tự động bên ngoài sự chỉ đạo của ý thức.Vô thức ảnh hưởng đến nhiều phạm vi hoạt động của con người .Trong những hoàn cảnh đó nó có thể giúp con người giảm bớt sự căng thẳng trong hoạt động .Việc tăng cường rèn luyện để biến thành hành vi tích cực thành thói quen ,có vai trò quan trọng trong đời sống .
b. Nguồn gốc của ý thức
ã Nguồn gốc tự nhiên
ý thức ra đời là kết quả của sự phát triển lâu dài của giới tự nhiên cho tới khi xuất hiện con người và bộ óc .Khoa học chứng minh rằng thế giới vật chất nói chung và trái đất nói riêng đã từng tồn tại rất lâu trước khi xuất hiện con người ,rằng hoạt động ý thức của con người diễn ra trên cơ sở hoạt động sinh lý thần kinh bộ não người .Không thể tách rời ý thức ra khỏi bộ não vì ý thức là chức năng bộ não ,bộ não là khí quản của ý thức .Sự phụ thuộc ý thức vào hoạt động bộ não thể hiện khi bộ não bị tổn thương thì hoạt động ý thức sẽ bị rối loạn .Tuy nhiên không thể quy một cách đơn giản ý thức về quá trình sinh lý bởi vì óc chỉ là cơ quan phản ánh .Sự xuất hiện của ý thức gắn liền sự phát triển đặc tính phản ánh ,nó phát triển cùng với sự phát triển của tự nhiên .Sự xuất hiện của xã hộ loài người đưa lại hình thức cao nhất của sự phản ánh ,đó là sự phản ánh ý thức luôn gắn liền với việc làm cho tự nhiên thích nghi với nhu cầu phát triển của xã hội.
ã Nguồn gốc xã hội
Sự ra đời của ý thức gắn liền hình thành với sự phát triển của bộ óc con người dưới ảnh hưởng của lao động và giao tiếp QHXH.
Lao động của con người là nguồn gốc vật chất có tính xã hội nhằm cải tạo tự nhiên ,thoả mãn nhu cầu và phục vụ mục đích bản thân con người .Nhờ nó mà con người và xã hội loài người mới hình thành và phát triển .Lao động là phương thức tồn tại cơ bản đầu tiên của con người ,đồng thời ngay từ đầu đã liên kết con người với nhau trong mối quan hệ khách quan ,tất yếu ; mối quan hệ này đến lượt nó nảy sinh nhu cầu trao đổi kinh nghiệm và tổ chức lao động ,nhu cầu"cần phải nói với nhau một cái gì". Và kết quả là ngôn ngữ ra đời. Ngôn ngữ được coi là cái vỏ vật chất của tư duy ,với sự xuất hiện của ngôn ngữ ,tư tưởng con người có khả năng biểu hiện thành hiện thực trực tiếp ,trở thành tín hiệu vật chất tác động tới giác quan của con người và gây ra cảm giác .Nhờ có nó mà con người có thể giao tiếp ,trao đổi ,truyền đạt kinh nghiệm cho nhau ,thông qua đó mà ý thức cá nhân trở thành ý thức xã hội ,và ngược lại. Chính nhờ trừu tượng hoá và khái quát hoá tức là quá trình hình thành thực hiện ý thức ,chính nhờ nó mà con người có thể đi sâu vào bản chất của sự vật ,hiện tượng đồng thời tổng kết hoạt động của mình trong toàn bộ quá trình phát triển lịch sử.
C. Bản chất của ý thức
Từ việc xem xét nguồn gốc của ý thức ,có thể thấy rõ ý thức có bản tính phản ánh ,sáng tạo và bản tính xã hội .
Bản tính phản ánh thể hiện về thế giới thông tin bên ngoài ,là biểu thị nội dung được từ vật gây tác động và được truyền đi trong quá trình phản ánh . Bản tính của nó quy đinh mặt khách quan của ý thức, tức là phải lấy kháh quan làm tiền đề ,bị nó quy định nội dung phản ánh là thế giới khách quan.
ý thức ngay từ đầu đã gắn liền với lao động ,trong hoạt động sáng tạo cải biến và thống trị tự nhiên của con người và đã trở thành mặt không thể thiếu của hoạt động đó .Tính sáng tạo của ý thức thể hiện ở chỗ nó không chụp lại một cách thụ động nguyên xi mà gắn liền với cải biến ,quá trình thu nhập thông tin gắn liền với quá trình xử lý thông tin .Tính sáng tạo của ý thức còn thể hiện ở khả năng gián tiếp kháI quát thế giới khách quan ở quá trình chủ động ,tác động vào thế giới đó.
Phản ánh và sáng tạo liên quan chặt chẽ với nhau ,không thể tách rời ,không có phản ánh thì không có sáng tạo vì phản ánh là điểm xuất phát là cơ sở của sáng tạo .Đó là MQHBC giữa thu nhận xử lý thông tin ,là sự thống nhất mặt khách quan chủ quan của ý thức.
ý thức chỉ được nảy sinh trong lao động ,hoạt động cải tạo thế giới của con người.Hoạt động đó không thể là hoạt động đơn lẻ mà là hoạt động xã hội. ý thức trước hết là thức của con người về xã hội và hoàn cảnh và những gì đang diễn ra ở thế giới khách quan về mối liên hệ giữa người và người trong quan hệ xã hội.Do đó ý thức xã hội hình thành và bị chi phối bởi tồn tại xã hội và các quy luật của tồn tại xã hội đó …ý thức của mỗi cá nhân mang trong lòng nó ý thức xã hội ,Bản tính xã hội của ý thức cũng thống nhất với bản tính phản ánh trong sáng tạo.Sự thống nhất đó thể hiện ở tính năng động chủ quan của ý thức ,ở qaun hệ giữa nhân tố vật chất và nhân tố ý thức trong hoạt động cải tạo thế giới quan của con người.
3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Lênin đã chỉ ra rằng,sự đối lập giữa vật chất và ý thức chỉ có ý nghĩa tuyệt đối trong phạm vi hạn chế:trong trường hợp này chỉ giới hạn trong vấn đề nhận thức luận cơ bản là thừa nhận cái gì là cái có trước ,cái gì là cái có sau . Ngoài giới hạn đó thì không còn nghi ngờ gì nữa rằng sự đối lập đó chỉ là tương đối .Như vậy để phân ranh giới giữa CNDV và CNDT ,để xác định bản tính và sự thống nhất của thế giới cần có sự đối lập tuyệt đối giữa vật chất và ý thức trong khi trả lời cái nào có trước cái nào quyết định .Không như vậy sẽ lẫn lộn 2 đường lối cơ bản trong triết học ,lẫn giữa vật chất và ý thức và cuối cùng sẽ xa rời quan điểm duy vật .Song sự đối lập giữa vật chất và ý thức chỉ là sự tương đối như là những nhân tố ,những mặt không thể thiếu được trong hoạt động của con người ,đặc biệt là hoạt động thực tiễn con người ,ý thức có thức có thể cải biến được tự nhiên ,thâm nhập vào sự vật , không có khả năng tự biến thành hiện thực,nhưng thông qua hoạt động thực tiễn của con người,ý thức có thể cải tiến được ,thâm nhập vào sự vật ,hiện thực hoá những mục đích mà nó đề ra cho hoạt động của mình.Điều này bắt nguồn từ chính ngay bản tính phản ánh,sáng tạo và xã hội của ý thức và chính nhờ bản tính đó mà chỉ có con người có ý thức mới có khả năng cải biến và thống trị tự nhiên ,bắt nó phục vụ con người. Như vậy tính tương đối trong sự đối lập giữa vật chất và ý thức thể hiện ở tính độc lập tương đôí,tính năng động của ý thức. Mặt khác đời sống con người là sự thống nhất không thể tách rời giữa đời sống vật chất và đời sôngs tinh thần trong đó những nhu cầu tinh thần ngày càng phong phú và đa dạng và những nhu cầu vật chất cũng bị tinh thần hoá.Khẳng định tính tương đối của sự đối lập giữa vật chất và ý thức không có nghĩa là khẳng định cả hai yếu tố có vai trò như nhau trong đời sống và hoạt động của con người .Trái lại, Triết học Mác-Lênin khẳng định rằng,trong hoạt động của con người những nhân tố vật chất và ý thức có tác động qua lại ,song sự tác động đó diễn ra trên cơ sở tính thứ nhất của nhân tố vật chất so với tính thứ hai cuả ý thức.
Trong hoạt động của con người ,những nhu cầu vật chất xét đến cùng bao giờ cũng giữ vai trò quyết định ,chi phối và quy định mục đích hoạt động của con người vì nhân tố vật chất quy định khả năng các nhân tố tinh thần có thể tham gia vào hoạt động của con người, tạo đIều kiện cho nhân tố tinh thần hoặc nhân tố tinh thần khác biến thành hiện thực và qua đó quy định mục đích chủ trương biện pháp mà con người đề ra cho hoạt động của mình bằng cách chọn lọc, sữa chữa bổ bổ sung cụ thể hoá mục đích chủ trương biện pháp đó . Hoạt động nhận thức của con người bao giờ cũng hướng đến mục tiêu cải biến tự nhiên nhằm thoả mãn nhu cầu sống . Hơn nữa,cuộc sống tinh thần của con người xét đến cùng bị chi phối và phụ thuộc vào việc thoả mãn nhu cầu vật chất và vào những điều kiện vật chất hiện có .khẳng định vai trò cơ sở ,quyết định trực tiếp nhân tố vật chất, triết học Mác-Lênin đồng thời cũng không coi nhẹ vai trò của nhân tố tinh thần ,tính năng động chủ quan. Nhân tố ý thức có tác động trở lại quan trọng đối với nhân tố vật chất. Hơn nữa ,trong hoạt động của mình ,con người không thể tạo ra các đối tượng vật chất ,cũng không thể thay đổi được những quy luật vận động của nó . Do đó ,trong quá trình hoạt động của mình con người phải tuân theo quy luật khách quan và chỉ có thể đề ra những mục đích,chủ trương trong phạm vi vật chất cho phép .
II. Vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong việc xây dựng nền kinh tế nước ta hiện nay .1.Vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị :
Như chúng ta đã biết, giữa vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng lẫn nhau .Nhân tố vật chất giữ vai trò quyết định còn nhân tố ý thức có tác động trở lại nhân tố ý thức. Nhân tố vật chất trong nhiều trường hợp ý thức có tác dụng quyết định đến sự thành bại của con người.Điều này thể hiện rõ trong các đường lối chủ trường,chính sách đổi mới kinh tế của Đảng .Vai trò tích cực của ý thức chỉ được trong một thời gian nhất định và điều kiện cụ thể vì thế giới vẫn tồn tại khách quan và vận động ,theo đó ý thức phải biến đổi phù hợp với nó ,nếu tiêu cực thì sớm muộn cũng bị đào thải ,nhưng xét đén cùng thì ý thức vẫn là nhân tố thứ hai quyết định .Và ta thấy nếu kinh tế của một nước giàu ,xã hội phát triển cao nhưng chính trị mất ổn định ,luôn đấu tranh giai cấp …thì đất nước đó không thể yên ấm hoà bình được và cuộc sống người dân tuy đầy đủ ,sung túc nhưng sẽ luôn lo âu .Do đó nếu chính trị ổn định thì dân mới yên tâm làm ăn và xây dựng một xã hội phát triển ,đất nước giàu mạnh.
Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị thay đổi theo từng hình thái kinh tế CXNT-CHNL-PK-TBCN-CNXH .Trình độ tổ tổ chức quản lý và tính chất hiện đại của nền sản xuất sẽ là nhân tố quy định trình độ và mức sống của xã hội ,bởi sản xuất vật chất là nền tảng hình thành tất cả các quan hệ xã hội đời sống tinh thần của xã hội .hiện thực lịch sử đã chỉ ra rằng mọi quan hệ của đời sống xã hội bao gồm quan hệ chính trị ,nhà nước pháp quyền,đạo đức ,khoa học ,tôn giáo…đều hình thành biến đổi gắn liền với kinh tế và sản xuất nhất định .Trong đó theo Mác quan hệ sản xuất giữa người với người là cơ bản quyết định tất cả các quan hệ khác .
Sản xuất vật chất hay kinh tế là cơ sở đầu tiên quan trọng nhất khi tham gia vào quá trình phân hoá và hoàn thiện các chức năng của con người ,thoả mãn các nhu cầu của con người và xã hội . Sản xuất vật chất môi trường tự nhiên ,điều kiện xã hội…đòi hỏi thể lực ,trí tuệ và nhân cách con người phải phát triển thích ứng với nó .Yêu cầu khách quan của việc phát triển kinh tế ,sản xuất cho khoa học kĩ thuật và điều kiện sinh hoạt xã hội ngày càng phát triển hoàn thiện .Đó chính là cơ sở quyết định sự hoàn thiện của con người ,chính trị ,xã hội ,là nhân tố qaun trọng hàng đầu của LLSX .Sự phong phú đa dạng của vật chất sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kĩ thuật và đời sống tinh thần trong quá trình sản xuất là cơ sở nảy sinh sự phát triển năng lực tinh thần của con người .Nói cho cùng nhu cầu của con người về vật chất bao giờ cũng giữ vai trò quyết định vì con người trước hết phải ăn mặc ,ở rồi đến vui chơi giải trí .Hoạt động nhận thức của con người trước hết hướng tới mục tiêu cải biến tự nhiên nhằm thoả mãn nhu cầu sống và cuộc sống của con nguươì phụ thuộc vào nhu cầu vật chất và những điều kiện hiện có.
Nền kinh tế của một nước là nền tảng để cho nước đó tiếp tục phát triển các chủ trương biện pháp trong việc phát triển kinh tế vào công cuộc bảo vệ xây dựng đất nước .Căn cứ vào tình hình kinh tế mà có những chính sách phù hợp nhằm đem lại lợi ích cao cho xã hội và cho nhân dân .Tác dụng ngược lại thể chế chính trị ,ý thức của một nước rất quan trọng trong việc xây dựng đất nước. Chính trị ổn định chính là điều kiện phát triển kinh tế ,mọi doanh nghiệp cũng như nhân dân ,các công ty các tổ chức đem hết sức mình tạo lợi ích cho bản thân và xã hội.
Nguyên lý triết học Mác-Lênin về mối QHBC giữa vật chất và ý thức đòi hỏi chúng ta phải xem xét các sự vật từ thực tế khách
quan ,tránh chủ nghĩa chủ quan duy ý chí,đồng thời phát huy vai trò năng động sáng tạo của ý thức ,phát huy nỗ lực chủ quan và hoạt động của con người .
2.Vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức rtong việc xây dựng nền kinh tế mới ở nước ta hiện nay.
Như chúng ta đã biết sau khi giải phóng miền nam thống nhất đất nước ,nền kinh tế miến bắc bị suy giảm nghiêm trọng.Cơ sở vật chất kĩ thuật yếu kém,cơ cấu kinh tế mất cân đối ,năng suất lao động thấp…sản xuất nông nghiệp chưa cung cấp đủ lương thực cho dân ,nguyên liệu cho công nghiệp ,hàng hoá cho xuất khẩu ,ngoài ra còn bị tàn phá nặng nề bởi đế quốc Mĩ .ở miền nam sau 20 năm chiến tranh nền kinh tế bị đảo lộn ,nông nghiệp bị hoang hoá ở nhiều vùng…
Trước tình hình đó đại hội Đảng ta lần thứ IV đã đề ra chỉ tiêu và kế hoạch 5 năm 1976-1980 về xây dựng và phát triển vượt quá khả năng kinh tế 1975 phấn đấu dạt 21tr tấn lương thực 1tr tấn cá biển ,1tr ha khai hoang , 1tr200ha rừng mới 10tr tấn than sạch …ngoài ra còn đề xuất xây dựng thêm các cơ sở mới về công nghiệp như cơ khí và đặc biệt là phải cải tạo XHCN ở miền nam .Những chủ trương chính sách sai lầm đó đã gây tổn hại đến nền kinh tế cuộc sóng nhân dân…đến hết 1980 ,nhiều chỉ tiêu đề ra chỉ đạt được 50-60%, nền kinh tế tăng trưởng chậm ,tổng sản phẩm xã hội bình quân là 1,5% công nghiệp tăng 2,6% nông nghiêp giảm 0,15% .
Đại hội Đảng lần V vẫn chưa tìm ra nguyên nhân dẫn tới sự trì trệ ,đồng thời cũng chưa đề ra các chính sách mới cho nền kinh tế 1981-1985 . Chúng ta chưa khắc phục chủ quan trì trệ trong bố trí cơ cấu kinh tế ,cảI tạo XHCN và quản lý kinh tế lại phạm những sai lầm mới rong lĩnh vực phân phối lưu thông .Nhìn chung vẫn chưa đạt được mục tiêu đại hội V đề ra .
Tất nhiên ngoài những yếu tố chủ quan còn có yếu tố khách quan dẫn đến sự trì trệ của nền kinh tế do chiến tranh ,bối cảnh quốc tế … song chúng ta vẫn mắc sai lầm chủ quan trong việc quản lý cán bộ ,phát triển LLSX .
Nhắc lại thấy rõ tác động tiêu cực của ý thức đối với vật chất ,thấy rõ tác động qua lại giữa kinh tế và chính trị trước khi có công cuộc đổi mới .Phép BCDV khẳng định rằng nếu ý thức là tiêu cực thì sớm muộn sẽ bị đào thải .
Trước tình hình kinh tế đó ,Đảng và nhà nước đã đi sâu nghiên cứu ,phân tích tình hình ,lấy ý kiến của nhân dân và đặc biệt là đổi mới tư duy về kinh tế .Đại hội Đảng VI đã rút ra kinh nghiệm lớn trong đó có:phải luôn luôn xuất phát từ thực tế ,tôn trọng và hoạt động theo quy luật khách quan .Đảng đã đề ra đường lối đổi mới ,mở ra bước ngoặt trong sự việc xây dựng CNXH ở nước ta .
Tại đại hội VI Đảng đã nghiêm khắc tự phê bình ,tìm ra đúng nguyên nhân khủng hoảng kinh tế xã hội và đã đề ra nhiều phương hướng nhiệm vụ trong việc đổi mới ,nhất là về kinh tế ,thực hiện chương trình kinh tế với 3 mục tiêu : lương thực -thực phẩm ,hàng tiêu dùng ,xuất khẩu ,hình thành nền kinh tế nhiêu thành phần ,thừa nhận kinh tế tư sản sản xuất hàng hoá và kinh tế tư bản tư nhân ,đổi mới cơ chế quản lý .Trong quá trình thực hiện nghị quyết của Đảng ,những diễn biến quốc tế đã ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế nước ta nhưng Đảng ,nhà nước và nhân dân đã nỗ lực khắc phục những khó khăn và tìm tòi khai phá ra đường lối đổi mới . Tại đại hội VII ta đã đánh giá tình hình kinh tế chính trị của nước ta sau hơn nhiều năm thực hiện đổi mới đã đạt được các bước tiến quan trọng .Tình hình hình chính trị ổn định nên nền kinh tế có điều kiện phát triển bươc đầu nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần hoạt động theo sự quản lý của nhà nước ,LLSX huy động tốt hơn ,tránh được lạm phát ,đời sống của người dân được cải thiện ,cuộc khủng hoảng đã giảm bớt ,sinh hoạt dân chủ ngày càng phát huy .
Qua các dẫn chứng trên ta thấy sự tác động qua lại giữa vật chất và ý thức ,giữa kinh tế và chính trị ,nhờ có đường lối đổi mới ,nền kinh tế ngày càng phát triển ,cuộc sống của người dân ngày càng ổn định đã góp phần to lớn trong việc phát huy dân chủ trong xã hội . Ngoài mặt tích cực còn có tiêu cực như : lạm phát vẫn còn cao ,nhiều cơ sở đình đốn kéo dài ,lao động thiếu việc làm tăng lên ,và rong quản lý còn nhiều lúng túng sơ hở… đặc biệt đại hội cũng xác định "về quan hệ giữa đổi mới kinh tế và chính trị phải tập trung sức đổi mới kinh tế đáp ứng được nhu cầu cấp bách của nhân dân về việc làm ,và các nhu cầu xã hội khác ,xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của CNXH ,coi đó là điều kiện quan trọng để tiến hành đổi mới trong lĩnh vực chính trị."
Đảng ta đã vận dụng đúng đắn mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào công cuộc đổi mới đất nước cả về kinh tế lẫn chính trị .Đại hội VIII đã chỉ ra các mục tiêu cần đạt được ,cụ thể là phương châm chỉ đạo trong 5 năm 1991-1995 ,trong đó nổi cộm nhất là phương châm kết hợp động lực kinh tế và động lực chính trị ,phương châm tiếp tục đổi mới đã đI vào chiều sâu với bước đi vững chắc ,lấy đổi mới làm nền để thúc đẩy các lĩnh vực khác phát triển.
Trong báo cáo của Đảng về công cuộc đổi mới đã nhận xét :"nét nổi bật là trong Đảng đã có sự đổi mới tư duy về kinh tế với tinh thần độc lập sáng tạo. Đảng ta cụ thể hoá và phát triển nghị quyết đại hội VII ,bước đầu hình thành hệ thống các quan điểm ,nguyên tắc chỉ đạo sự nghiệp đổi mới ở nước ta ".
Sau đại hội ban chấp hành TƯ Đảng đã đề ra các nghị quyết giải quyết các vấn đề đối nội đối ngoại . Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kì đã đánh giá cao trong trong quá trình khắc phục khủng hoảng kinh tế … khắc phục được nhiều tồn tại trong 3 năm qua .Lạm phát được đẩy lùi .Tổng sản phẩm GDP tăng bình quân 8.2% so với mức đề ra năm 91-95 là 5,5-5,6%.Sản xuất nông nghiệp tương đối toàn diện sản lượng lương thực 26% so với 5 năm trước đó ,tạo đIều kiện thuận lợi để cuộc sống đầy đủ ,phát triển được nhiều ngành nghề .Vấn đề lương thực đã được giải quyết tốt .Quan hệ kinh tế đối ngoại được mở rộng theo hướng đa dạng hoá ,thị trường xuất nhập khẩu được mở rộng , nguồn vốn đầu tư nước ngoài tăng mạnh ,tăng kim ngạch xuất khẩu 91-95 là 17 tỉ USD so với kế hoạch là 12-15 tỉ USD. Khoa học công nghệ có bước phát triển lớn phục vụ cho việc thực hiện đường lối chính sách của Đảng ,lĩnh vực văn hoá tinh thần được nâng cao ,đời sống nhân dân được cải thiện ,quốc phòng an ninh được giữ vững.
Hội nghị đại biểu toàn quốc chỉ nêu lên thành tựu tiếp tục giữ vững và củng cố ổn định chính trị ,mở rộng quan hệ đối ngoại ,tạo đIều kiện cho công cuộc xây dựng bảo vệ tổ quốc .
Như vậy , cũng thấy rõ tác động của kinh tế với chính trị và xã hội ,đối với công tác đối ngoại ,quốc phòng ,an ninh…đổi mới kinh tế nhưng các nhân tố chính trị xã hội ,đối ngoại…cũng tác động tích cực trở lại đối với kinh tế .Vận dụn đúng đắn các mối quan hệ biện chứng duy vật . tại hội nghị đại biểu toàn quốc đã vạch ra những điểm yếu kém ,vấn đề kinh tế như "nền kinh tế vẫn còn mang tính chất nông nghiệp lạc hậu ,công nghiệp nhỏ bé ,kết cấu hạ tầng kém phát triển,kinh tế tuy tăng trưởng khá nhưng năng suất chất lượng hiệu quả còn kém …" và vẫn còn những tồn tại về mặt văn hoá ,xã hội…để có những thay đổi tốt hơn ,Đảng đã đề ra những nhiệm vụ chủ yếu thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá ,hiện đại hoá ,chăm lo đến các vấn đề văn hoá xã hội , đảm bảo an ninh -quốc phòng, xây dựng nhà nước văn hoá của dân ,do dân và vì dân đổi mới chỉnh đốn đảng và củng cố mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân .
Sau đại hội TƯ Đảng (khoá VII) ra nghị quyết phát triển công nghiệp mới đến 2000 theo hướng công nghiệp hoá ,hiện đại hoá đất nước.Cải cách nền hành chính nhà nước với nội dung của hội nghị TƯ lần thứ VIII ,có thể coi đã cụ thể hoá một bước cương lĩnh và chiến lược phát triển khoa học xã hội mà đại hộiVIII đã thông qua.
Với thành công trong những năm qua ta thấy đường lối và chính sách của Đảng và nhà nước là hoàn toàn đúng đắn phù hợp với nền kinh tế thị trường mà trước đây ta đã phủ nhận đẻ hướng tới CNXH bỏ qua CNTB . Đảng đã phạm sai lầm đó là vội cải tạo CNXH xoá bỏ nền kinh tế nhiều thành phần duy trì lâu cơ chế quản lý quan liêu bao cấp.Có nhiều sai sót việc quản lý tiền tệ cũng như quản lý về giai cấp lãnh đạo. Nước ta đã nghiên cứu các mặt mạnh và hạn chế của CNTB để tận dụng một cách tổng hợp vào tình hình kinh tế xã hội nước ta hiện nay để đưa Việt Nam theo hướng phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Các bước phát triển kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội.
Trên tinh thần đó cùng với các kinh nghiệm đại hội VIII lần này đã đánh giá được khó khăn chung để chủ động nắm lấy thời cơ để vươn lên đẩy lùi và khắc phục các nguy cơ xuất phát từ tình hình trên . Đảng đã đề ra cương lĩnh cần tiếp tục nắm vững 2 nhiệm vụ chiến lược xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc. Từ nay đến 2000 ra sức để trở thành nước công nghiệp.
Với những chính sách phát triển thích hợp chúng ta đã được một số bước tiến quan trọng ,bình thường hoá quan hệ Việt -Mĩ ,là thành viên của khối Asean ,đặc biệt 1998 nước ta đã trở thành thành viên của khối APEC (diễn đàn hợp tác kinh tế châu á Thái Bình Dương)… Từ chỗ bị bao vây cấm vận đến nay nước ta đã quan hệ ngoại giao với 167 nước ,quan hệ thương mại với 120 nước ,phát triển quan hệ tốt đẹp với các nước láng giềng .Đó là ý nghĩa to lớn trong việc giữ vững môI trường hoà bình ổn định ,là nền tảng xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Tăng trưởng GDP tiếp tục tăng cao ,1996 là 9,3%,1997 là 8,2% 1998 là 5,8% ,lạm phát chiếm dưới 10%.Tốc độ tăng trưởng công nghiệp vẫn là hai con số…đời sống nhân dân càng ổn định tăng cao .
Công cuộc đổi mới ở Việt Nam ngày càng đúng đắn ,chính vì Đảng ngày càng nắm vững và vận dụng đúng đắn phương pháp luận triết học toàn diện Mác-Lênin .Mối quan hệ kinh tế biện chứng giữa kinh tế và chính trị ngày càng rõ nét ,đơn cử từ việc thiếu ăn bây giờ Việt Nam trở thành nước thứ 3 xuất khẩu gạo trên thế giới. Lòng tin của nhân dân ngày càng tăng cao .Ngoài ra còn tăng truởng về tổng sản phẩm quốc dân ,về tốc độ thu hút vốn đầu tư nước ngoài ,về xuất khẩu …
Đổi mới là khó khăn nhưng nhờ có chính sách và đường lối đúng đắn và có sự tìm tòi học hỏi từ nền kinh tế tư bản của nhiều nước ,cùng các diễn biến phức tạp của tình hình thế giới,những biến dộng nhiều mặt của đất nước càng đòi hỏi lòng kiên trì ,giữ vững lòng tin ,quyết tâm khắc phục khó khăn để thích ứng kịp thời với sự biến đổi từng ngày từng giờ.

Người cán bộ kinh tế phảI quán triệt sâu sắc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác -Lênin ,tư tưởng Hồ Chi Minh là phải nghiên cứu đề xuất và áp dụng đúng đắn các chủ trương và chính sách kinh tế để đưa nền kinh tế nước ta vượt qua tình trạng nghèo đói và kém phát triển ,tránh khỏi nguy cơ tụt hậu so với kinh tế thế giới .Trong việc xoá bỏ quan liêu bao cấp nghĩa là đòi hỏi người làm công tác quản lý phải sáng tạo ,năng động nắm bắt được thực tế để vận dụng và phát triển nó .Từ kinh nghiệm thực tế chỉ cần không nhận định đúng một vấn đề ,1 chủ trương ,1 thông tin ,1 từ ngữ trong bản hợp đồng kinh tế ,1 hành động chậm trễ hay vội vã là có thể lớn về nền kinh tế .Ngược lại nếu biết nắm bắt kịp thời 1 thông tin dù nhỏ vẫn có thể dẫn tới một thắng lợi lớn.Nên sự kết hợp giữa thực tế khách quan và phát huy nỗ lực chủ quan ,kết hợp giữa tình cảm và trí tuệ phải thật nhuần nhuyễn ,các bộ quản lý phải có phẩm chất tốt đẹp,phải trung thực ,chính xác kịp thời ,phải biết nắm bắt và đề ra giải pháp dúng đắn cho mọi tình huống .Cần đấu tranh chống chủ nghĩa chủ quan duy ý chí ,tư tưởng nóng vội phưu lưu ,bất chấp mọi quy luật .Ngoài ra cần rèn luyện tính kiên nhẫn chăm chỉ ,dám nghĩ dám làm ,chủ động sáng tạo ,giành lấy thời cơ .Rèn luyện được các phẩm chất ấy người quản lý sẽ đứng vững trên vị trí lãnh đạo của mình , ngoài ra còn có thể vươn lên cao hơn để trở thành nhà kinh doanh giỏi.
Kết luận
Xây dựng CNXH ở Việt Nam là một sự nghiệp rất khó khăn ,phức tạp ,nó như cuộc chiến đấu kháng chiến trường kì của Đảng và nhà nước. Với những bién động trước tình hình kinh tế của nhiều nước trên thế giới đòi hỏi Đảng và nhà nước phảI kiên trì ,giữ vững lòng tin ,quyết tâm khắc phục khó khăn ,đồng thời phải tỉnh táo ,nhạy bén thích ứng kịp thời với thực tế biến đổi từng ngày từng giờ. Quán triệt phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh ,vận dụng thành thạo phép BCDV vào việc nghiên cứu và quản lý kinh tế ,phát huy mạnh mẽ quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong công cuộc đổi mới nhằm tăng trưởng nền kinh tế quốc dân ,nhất định chúng ta sẽ trở thành những nhà quản lý giỏi góp phần xứng đáng vào công cuộc đổi mới của đất nước,tạo điều kiện để nền kinh tế Việt Nam phát triển cao ,từ đó nâng cao vị trí Việt Nam trên chính trường quốc tế ,góp phần củng cố sự ổn định về chính trị của đất nước .Đó là lương tâm của những người làm công tác quản lý kinh tế chính trị.
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình triết học Mác-Lênin tập 2 CNXB chính trị quốc gia 1997
2. Văn kiện đại hội toàn quốc lần VI
3. Văn kiện đại hội toàn quốc lần VII
4. Văn kiện đại hội toàn quốc lần VIII
5. Kinh tế 1998 -1999 Việt Nam và thế giới(thời báo kinh tế Việt Nam )
6. Thời báo kinh tế Việt Nam
7. Tạp chí nghiên cứu kinh tế.